Phân tích rủi ro thuế công ty như thế nào? Theo nhiều nhà phân tích, rủi ro chỉ phát sinh khi có một sự không chắc chắn về mất mát sẽ xảy ra. Bản chất rủi ro là sự không chắc chắn, nếu chắc chắc (xác suất bằng 0% hoặc 1) thì không gọi là rủi ro. Ví dụ, nếu một người đứng ra thành lập vài chục doanh nghiệp (DN), mặc dù chắc chắn có chuyện lợi dụng chính sách để trục lợi nhưng đây không phải là rủi ro vì hậu quả đã thấy trước (ít nhất vi phạm luật DN). Tuy nhiên, nếu một người đứng ra thành lập một DN, thì người này có thể vi phạm hoặc không. Trong trường hợp này có sự không chắc chắn về hậu quả, tức là có rủi ro trong hành động tuân thủ pháp luật của người này.
Về phía cơ quan Thuế, nói đến rủi ro không thể bỏ qua khái niệm về xác suất hay là khả năng xảy ra mất mát. Xác suất khách quan – còn gọi là xác suất tiên nghiệm được xác định bằng phương pháp diễn dịch. Ví dụ như đồng tiền sấp hay ngửa thì xác suất của nó là 50%. Tuy nhiên, xác suất khách quan có lúc không thể xác định bằng tư duy logic. Chẳng hạn như không thể suy diễn rằng xác suất của một người mới đứng ra thành lập DN có vi phạm là 50% bởi còn nhiều yếu tố liên quan khác như trình độ văn hóa, môi trường pháp lý, ý thức tuân thủ pháp luật… Tuy nhiên, bằng cách phân tích kỹ lưỡng ngành nghề, kho hàng, địa chỉ kinh doanh… những trường hợp mới ra thành lập DN trước đây, người ta có thể ước tính xác suất vi phạm theo lối suy luận quy nạp. Ngoài xác suất khách quan, có thể kể thêm xác suất chủ quan là ước tính của cơ quan Thuế đối với khả năng xảy ra mất mát của một hiện tượng cho trước (mức độ tin tưởng), do vậy nhiệm vụ của cơ quan Thuế là xác định và phân tích các sự kiện, qua đó đóng góp cho việc tính toán một xác suất khách quan. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến xác suất chủ quan đối với tổ chức như công cụ chính sách, thông tin, nguồn lực… Tức thông qua việc xác định đối tượng có rủi ro cao, ưu tiên tập trung nguồn lực sẽ giúp cho công tác quản lý không bị dàn trải, giảm bớt áp lực về khối lượng công việc, đồng thời tạo được sự cân bằng giữa tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh với kiểm soát chặt chẽ rủi ro.
Về phía DN, chẳng hạn như Công ty Ernst & Young định nghĩa rủi ro về thuế như sau: Bất cứ sự kiện, hành động hay không hành động nào về chiến lược thuế, hoạt động kinh doanh, báo cáo tài chính hay vấn đề tuân thủ luật pháp làm ảnh hưởng có hại đến tình hình thuế hay tình hình kinh doanh của DN, hoặc dẫn đến bị phạt, phải nộp thêm thuế, ảnh hưởng đến uy tín, mất cơ hội kinh doanh hoặc có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. Rủi ro có liên quan đến sự luôn thay đổi, đặc biệt là trong nền kinh tế. Đó là những rủi ro mà hậu quả của nó có thể có lợi, nhưng cũng có thể sẽ mang đến sự tổn thất. Kết quả khảo sát của Ernst & Young cho thấy, hơn 90% cán bộ quản lý phụ trách thuế trong DN cho rằng, những thay đổi về luật thuế và cách hiểu về luật thuế của cơ quan thuế là yếu tố chủ chốt làm tăng thêm rủi ro về thuế. Về khía cạnh này thì Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ, nếu thông tin về thuế không được cập nhật thường xuyên cho DN.
Theo các chuyên gia tư vấn thuế, hiện nay có 7 loại rủi ro về thuế trong đó chia thành 2 loại: 4 loại rủi ro cụ thể (rủi ro nghiệp vụ, rủi ro hoạt động, rủi ro tuân thủ, rủi ro kế toán tài chính) và 3 loại rủi ro tổng quát (rủi ro cộng hưởng, rủi ro quản lý, rủi ro uy tín). Do đó DN phải kiểm soát chặt chẽ từ mọi hoạt động của DN mình để nhận diện được những dấu hiệu rủi ro về thuế và có hướng điều chỉnh kịp thời, tránh thất thoát về tài chính cho DN. Đồng thời phát hiện sớm những rủi ro về thuế để mỗi DN có được sự chủ động trong việc tương tác và làm việc hiệu quả với cơ quan thuế, đặc biệt trong quá trình kiểm tra, thanh tra thuế.
Quản lý rủi ro (QLRR) là gì?
QLRR là một phần của hoạt động quản lý. QLRR là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro đồng thời tìm cách biến rủi ro thành những cơ hội thành công. Các nội dung chính của QLRR: Nhân diện – phân tích – đo lường rủi ro; kiểm soát – phòng ngừa rủi ro. Việc QLRR, tùy thuộc vào các yếu tố: Quy mô tổ chức lớn hay nhỏ? Tiềm lực của tổ chức mạnh hay yếu? Môi trường của tổ chức hoạt động đơn giản hay phức tạp? Có nhiều rủi ro hay ít rủi ro?
QLRR chính là công cụ then chốt giúp cơ quan Thuế kiểm soát rủi ro bằng việc áp dụng một cách có hệ thống các quy trình, biện pháp nhằm hướng các nguồn lực vào các lĩnh vực có nguy cơ ảnh hưởng đến các mục tiêu đề ra, qua đó hỗ trợ tối đa tính hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý. Theo đó, từ 1-7-2013, việc áp dụng cơ chế QLRR trong quản lý thuế đã được quy định cụ thể trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế. QLRR tạo ra môi trường minh bạch trên nền tảng của tuân thủ pháp luật, giúp cho DN có điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Truyền đạt thông tin rủi ro
Rủi ro là một loại thông tin rất khó truyền đạt. Bản chất của rủi ro là xác suất. Diễn giải xác suất và hiểu xác suất như thế nào là một đề tài học thuật rất cổ điển trong giới triết học khoa học. Giáo sư Daniel Kahneman, một nhà tâm lý học lừng danh từng được trao giải Nobel Kinh tế (2002), là một nhà khoa học về rủi ro. Ông bỏ ra hơn 40 năm nghiên cứu về rủi ro và cách truyền đạt thông tin rủi ro.
Trong cuốn sách mới xuất bản Thinking, fast and slow (tạm dịch: Suy nghĩ, nhanh và chậm), ông mô tả hai cơ chế mà con người sử dụng để cảm nhận thế giới chung quanh: Cơ chế hai là suy nghĩ chậm, có ý thức, đòi hỏi nhiều thông tin và thông tin phải đầy đủ để quyết định. Và cơ chế một là suy nghĩ nhanh và quyết định nhanh, dựa vào những thông tin chưa đầy đủ. Cơ chế một áp dụng thông tin xác suất cho một biến cố, và phân nhóm khả năng biến cố này xảy ra thành ba nhóm: Không thể xảy ra, có thể xảy ra, và chắc chắn xảy ra. Chính cơ chế suy nghĩ nhanh này giúp cơ quan Thuế ngăn chặn và đẩy lùi DN “ma” gian lận thuế cà phê trong niên vụ 2012-2013, vì vậy có thể nói rằng cách hành động của chúng ta trong vụ “trốn thuế cà phê” thuộc cơ chế này. Thất thu thuế là một hiện tượng thực tế khách quan vốn có của bất kỳ hệ thống thuế khoá nào, quản lý thuế phải chấp nhận rủi ro. Vấn đề do đó, không phải là xoá bỏ tất cả những rủi ro (vì không thể thực hiện được), mà là tiếp cận với rủi ro một cách sáng suốt. Rủi ro có thể quản lý được khi chính sách có tầm nhìn xa.Thiệt hại kiểm soát được thì đã muộn.Tùy bạn lựa chọn. Coopers and Lybrand, L.P.Quảng cáo trên tờ The Wall Street Journal, 7/12/1995.
Một cách “anh minh” với rủi ro là xử lý thông tin đúng và hành động dựa vào chứng cứ. Chứng cứ có khi không hẳn phải hoàn chỉnh, nhưng đủ để chúng ta quyết định. Đồng thời, cung cấp thông tin về rủi ro trong xã hội hiện đại không chỉ là một nghệ thuật, mà còn là một khoa học: Khoa học về truyền đạt thông tin khoa học. Ví dụ khi triển khai Công văn 7257/BTC-TCT ngày 12/06/2013 của Bộ Tài chính về việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với các DN có dấu hiệu rủi ro cao về thuế; hầu như các địa phương đều có cách giải thích khác nhau về các DN có rủi ro cao về thuế trong các hội nghị tập huấn, đối thoại; sự lúng túng và thiếu nhất quán trong việc gải thích của cơ quan thuế khiến cho cộng đồng DN băn khoăn, làm lan tỏa kiểu tâm lý đám đông, rằng quản lý thuế không thể đánh đồng mọi DN trong chính sách, và rồi một đòi hỏi xác đáng xuất phát từ cả hai phía, cơ quan Thuế và DN: tổ chức phân loại DN có rủi ro cao về thuế và ứng xử phù hợp với từng nhóm DN…
Chọn cách phân loại DN có rủi ro cao về thuế
Trước hết, rủi ro chính là sự kết hợp giữa mức độ nguy hiểm và tần xuất xảy ra hoặc có thể xảy ra. Rủi ro = Mức độ nguy hiểm x Tần suất có thể xảy ra. (hình 1)
Như vậy, phân loại DN có rủi ro về thuế, một cách nào đó chính là xếp hạng tín nhiệm DN, tuy nhiên, xét về tổng thể nhận diện hành vi: bất kỳ hành động hoặc không hành động nào mà dẫn đễn làm thất thu thuế đều được xem là rủi ro. Do đó, để tiện phân tích, người ta chia rủi ro thành 2 loại: rủi ro vật chất xuất phát từ sự lợi dụng chính sách của DN (khách quan), rủi ro đạo đức (chủ quan) xuất phát từ sự trung thực (làm sai hoặc không làm gì cả) của những người thực thi nhiệm vụ dẫn đến thất thu thuế. Đánh giá thực trạng vi phạm về thuế và hải quan, tại Hội nghị tổng kết mới đây giữa Bộ Tài chính và Bộ Công an, Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn cho rằng, muốn chống thất thu thuế, ngành Thuế, Hải quan cần phòng chống từ bên trong; bởi qua tổng kết thì có trên 6% các vụ việc vi phạm trong lĩnh vực thuế, hải quan đều có liên quan đến lực lượng bên trong.
Đối với rủi ro bên trong, giải quyết bằng cách tăng cường kiểm soát nội bộ, đẩy mạnh chế độ thanh tra công vụ. Đối với rủi ro bên ngoài, trên cơ sở nhận diện các rủi ro, tùy vào từng lĩnh vực, chúng ta lựa chọn cách thức phân tích rủi để áp dụng: đối với công tác thanh tra thuế sử dụng kỹ thuật đánh giá định lượng các chỉ số hoạt động của DN; đối với công tác kiểm tra sử dụng phương pháp phân tích bán định lượng; đối với công tác hoàn thuế sử dụng phương pháp phân tích rủi ro đơn giản, đó là dựa trên kết quả phân loại tín nhiệm DN (hình 2).
Đối với rủi ro khách quan, dựa vào các rủi ro, chúng ta phân tích, đo lường (xác định) và nên xếp loại thành 3 hạng như sau: Rủi ro mức cao, rủi ro mức trung bình và rủi ro mức thấp như sau:
Vấn đề cốt lõi ở đây là xác định bảng phân loại mức độ tín nhiệm cho phù hợp với từng địa phương, tức có tính đến độ nhạy của các chỉ số đặc thù, trên cơ sở các quy chuẩn đã được tiến hành và sử dụng trước đó. Thực tế có nhiều cách tiếp cận, định nghĩa khác nhau về tín nhiệm DN, song chung quy tín nhiệm DN được hiểu như sau: xếp hạng tín nhiệm DN là đánh giá năng lực tài chính, tình hình hoạt động hiện tại (cả yếu tố tuân thủ pháp luật thuế) và triển vọng phát triển trong tương lai của DN được xếp hạng từ đó xác định được mức độ rủi ro không trả được nợ, khả năng trả nợ cũng như sự chấp hành chính sách thuế trong tương lai.
Quy trình xếp hạng tín nhiệm DN cần dựa trên các thông tin cơ bản: Phân loại DN theo qui mô và ngành nghề kinh doanh. Trước hết DN được chia thành 3 nhóm theo qui mô DN lớn, DN vừa và DN nhỏ bằng cách cho điểm ở các chỉ tiêu lao động, vốn, doanh thu, tài sản. Sau khi phân loại theo quy mô sẽ xác định ngành nghề kinh doanh của DN dựa trên cơ sở đối chiếu ngành kinh doanh chính của DN có tỷ trọng lớn nhất hoặc chiếm từ 40% doanh thu trở lên theo 4 nhóm ngành: Nông-Lâm-Ngư nghiệp, Thương mại-dịch vụ, Xây dựng và Công nghiệp. Trên cơ sở ngành nghề và qui mô, sử dụng các bảng chấm điểm tương ứng với ngành nghề kinh doanh chính của DN. Ngoài ra còn sử dụng các chỉ tiếu chấm điểm khác như các chỉ tiêu dự báo nguy cơ tài chính của DN dựa trên các tiêu chí bao gồm: triển vọng ngành, chính sách của nhà nước tác động đến DN, tuân thủ pháp luật thuế và nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn….Trên cơ sở bảng điểm tổng hợp, tiến hành xếp hạng tín nhiệm DN và phân thành 3 nhóm rủi ro như trên./.
Liên hệ nếu quý khách cần tư vấn thêm: Ms Huyền Hotline/Zalo – 094 719 2091
Email: pham.thi.thu.huyen@manaboxvn.jp.
_______________