Phân tích rủi ro thuế công ty như thế nào?

Phân tích rủi ro thuế công ty như thế nào? Theo nhiều nhà phân tích, rủi ro chỉ phát sinh khi có một sự không chắc chắn về mất mát sẽ xảy ra. Bản chất rủi ro là sự không chắc chắn, nếu chắc chắc (xác suất bằng 0% hoặc 1) thì không gọi là rủi ro. Ví dụ, nếu một người đứng ra thành lập vài chục doanh nghiệp (DN), mặc dù chắc chắn có chuyện lợi dụng chính sách để trục lợi nhưng đây không phải là rủi ro vì hậu quả đã thấy trước (ít nhất vi phạm luật DN). Tuy nhiên, nếu một người đứng ra thành lập một DN, thì người này có thể vi phạm hoặc không. Trong trường hợp này có sự không chắc chắn về hậu quả, tức là có rủi ro trong hành động tuân thủ pháp luật của người này.

Tổng quan quản lý rủi ro

Về phía cơ quan Thuế, nói đến rủi ro không thể bỏ qua khái niệm về xác suất hay là khả năng xảy ra mất mát. Xác suất khách quan – còn gọi là xác suất tiên nghiệm được xác định bằng phương pháp diễn dịch. Ví dụ như đồng tiền sấp hay ngửa thì xác suất của nó là 50%. Tuy nhiên, xác suất khách quan có lúc không thể xác định bằng tư duy logic. Chẳng hạn như không thể suy diễn rằng xác suất của một người mới đứng ra thành lập DN có vi phạm là 50% bởi còn nhiều yếu tố liên quan khác như trình độ văn hóa, môi trường pháp lý, ý thức tuân thủ pháp luật… Tuy nhiên, bằng cách phân tích kỹ lưỡng ngành nghề, kho hàng, địa chỉ kinh doanh… những trường hợp mới ra thành lập DN trước đây, người ta có thể ước tính xác suất vi phạm theo lối suy luận quy nạp. Ngoài xác suất khách quan, có thể kể thêm xác suất chủ quan là ước tính của cơ quan Thuế đối với khả năng xảy ra mất mát của một hiện tượng cho trước (mức độ tin tưởng), do vậy nhiệm vụ của cơ quan Thuế là xác định và phân tích các sự kiện, qua đó đóng góp cho việc tính toán một xác suất khách quan. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến xác suất chủ quan đối với tổ chức như công cụ chính sách, thông tin, nguồn lực… Tức thông qua việc xác định đối tượng có rủi ro cao, ưu tiên tập trung nguồn lực sẽ giúp cho công tác quản lý không bị dàn trải, giảm bớt áp lực về khối lượng công việc, đồng thời tạo được sự cân bằng giữa tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh với kiểm soát chặt chẽ rủi ro.

Về phía DN, chẳng hạn như Công ty Ernst & Young định nghĩa rủi ro về thuế như sau: Bất cứ sự kiện, hành động hay không hành động nào về chiến lược thuế, hoạt động kinh doanh, báo cáo tài chính hay vấn đề tuân thủ luật pháp làm ảnh hưởng có hại đến tình hình thuế hay tình hình kinh doanh của DN, hoặc dẫn đến bị phạt, phải nộp thêm thuế, ảnh hưởng đến uy tín, mất cơ hội kinh doanh hoặc có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. Rủi ro có liên quan đến sự luôn thay đổi, đặc biệt là trong nền kinh tế. Đó là những rủi ro mà hậu quả của nó có thể có lợi, nhưng cũng có thể sẽ mang đến sự tổn thất. Kết quả khảo sát của Ernst & Young cho thấy, hơn 90% cán bộ quản lý phụ trách thuế trong DN cho rằng, những thay đổi về luật thuế và cách hiểu về luật thuế của cơ quan thuế là yếu tố chủ chốt làm tăng thêm rủi ro về thuế. Về khía cạnh này thì Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ, nếu thông tin về thuế không được cập nhật thường xuyên cho DN.

Theo các chuyên gia tư vấn thuế, hiện nay có 7 loại rủi ro về thuế trong đó chia thành 2 loại: 4 loại rủi ro cụ thể (rủi ro nghiệp vụ, rủi ro hoạt động, rủi ro tuân thủ, rủi ro kế toán tài chính) và 3 loại rủi ro tổng quát (rủi ro cộng hưởng, rủi ro quản lý, rủi ro uy tín). Do đó DN phải kiểm soát chặt chẽ từ mọi hoạt động của DN mình để nhận diện được những dấu hiệu rủi ro về thuế và có hướng điều chỉnh kịp thời, tránh thất thoát về tài chính cho DN. Đồng thời phát hiện sớm những rủi ro về thuế để mỗi DN có được sự chủ động trong việc tương tác và làm việc hiệu quả với cơ quan thuế, đặc biệt trong quá trình kiểm tra, thanh tra thuế.

Quản lý rủi ro (QLRR) là gì?

QLRR là một phần của hoạt động quản lý. QLRR là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro đồng thời tìm cách biến rủi ro thành những cơ hội thành công. Các nội dung chính của QLRR: Nhân diện – phân tích – đo lường rủi ro; kiểm soát – phòng ngừa rủi ro. Việc QLRR, tùy thuộc vào các yếu tố: Quy mô tổ chức lớn hay nhỏ? Tiềm lực của tổ chức mạnh hay yếu? Môi trường của tổ chức hoạt động đơn giản hay phức tạp? Có nhiều rủi ro hay ít rủi ro?

QLRR chính là công cụ then chốt giúp cơ quan Thuế kiểm soát rủi ro bằng việc áp dụng một cách có hệ thống các quy trình, biện pháp nhằm hướng các nguồn lực vào các lĩnh vực có nguy cơ ảnh hưởng đến các mục tiêu đề ra, qua đó hỗ trợ tối đa tính hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý. Theo đó, từ 1-7-2013, việc áp dụng cơ chế QLRR trong quản lý thuế đã được quy định cụ thể trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế. QLRR tạo ra môi trường minh bạch trên nền tảng của tuân thủ pháp luật, giúp cho DN có điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy kinh tế phát triển.

Truyền đạt thông tin rủi ro

Rủi ro là một loại thông tin rất khó truyền đạt. Bản chất của rủi ro là xác suất. Diễn giải xác suất và hiểu xác suất như thế nào là một đề tài học thuật rất cổ điển trong giới triết học khoa học. Giáo sư Daniel Kahneman, một nhà tâm lý học lừng danh từng được trao giải Nobel Kinh tế (2002), là một nhà khoa học về rủi ro. Ông bỏ ra hơn 40 năm nghiên cứu về rủi ro và cách truyền đạt thông tin rủi ro.

Trong cuốn sách mới xuất bản Thinking, fast and slow (tạm dịch: Suy nghĩ, nhanh và chậm), ông mô tả hai cơ chế mà con người sử dụng để cảm nhận thế giới chung quanh: Cơ chế hai là suy nghĩ chậm, có ý thức, đòi hỏi nhiều thông tin và thông tin phải đầy đủ để quyết định. Và cơ chế một là suy nghĩ nhanh và quyết định nhanh, dựa vào những thông tin chưa đầy đủ. Cơ chế một áp dụng thông tin xác suất cho một biến cố, và phân nhóm khả năng biến cố này xảy ra thành ba nhóm: Không thể xảy ra, có thể xảy ra, và chắc chắn xảy ra. Chính cơ chế suy nghĩ nhanh này giúp cơ quan Thuế ngăn chặn và đẩy lùi DN “ma” gian lận thuế cà phê trong niên vụ 2012-2013, vì vậy có thể nói rằng cách hành động của chúng ta trong vụ “trốn thuế cà phê” thuộc cơ chế này. Thất thu thuế là một hiện tượng thực tế khách quan vốn có của bất kỳ hệ thống thuế khoá nào, quản lý thuế phải chấp nhận rủi ro. Vấn đề do đó, không phải là xoá bỏ tất cả những rủi ro (vì không thể thực hiện được), mà là tiếp cận với rủi ro một cách sáng suốt. Rủi ro có thể quản lý được khi chính sách có tầm nhìn xa.Thiệt hại kiểm soát được thì đã muộn.Tùy bạn lựa chọn. Coopers and Lybrand, L.P.Quảng cáo trên tờ The Wall Street Journal, 7/12/1995.

Một cách “anh minh” với rủi ro là xử lý thông tin đúng và hành động dựa vào chứng cứ. Chứng cứ có khi không hẳn phải hoàn chỉnh, nhưng đủ để chúng ta quyết định. Đồng thời, cung cấp thông tin về rủi ro trong xã hội hiện đại không chỉ là một nghệ thuật, mà còn là một khoa học: Khoa học về truyền đạt thông tin khoa học. Ví dụ khi triển khai Công văn 7257/BTC-TCT ngày 12/06/2013 của Bộ Tài chính về việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với các DN có dấu hiệu rủi ro cao về thuế; hầu như các địa phương đều có cách giải thích khác nhau về các DN có rủi ro cao về thuế trong các hội nghị tập huấn, đối thoại; sự lúng túng và thiếu nhất quán trong việc gải thích của cơ quan thuế khiến cho cộng đồng DN băn khoăn, làm lan tỏa kiểu tâm lý đám đông, rằng quản lý thuế không thể đánh đồng mọi DN trong chính sách, và rồi một đòi hỏi xác đáng xuất phát từ cả hai phía, cơ quan Thuế và DN: tổ chức phân loại DN có rủi ro cao về thuế và ứng xử phù hợp với từng nhóm DN…

 Chọn cách phân loại DN có rủi ro cao về thuế

Trước hết, rủi ro chính là sự kết hợp giữa mức độ nguy hiểm và tần xuất xảy ra hoặc có thể xảy ra. Rủi ro = Mức độ nguy hiểm x Tần suất có thể xảy ra. (hình 1)

Như vậy, phân loại DN có rủi ro về thuế, một cách nào đó chính là xếp hạng tín nhiệm DN, tuy nhiên, xét về tổng thể nhận diện hành vi: bất kỳ hành động hoặc không hành động nào mà dẫn đễn làm thất thu thuế đều được xem là rủi ro. Do đó, để tiện phân tích, người ta chia rủi ro thành 2 loại: rủi ro vật chất xuất phát từ sự lợi dụng chính sách của DN (khách quan), rủi ro đạo đức (chủ quan) xuất phát từ sự trung thực (làm sai hoặc không làm gì cả) của những người thực thi nhiệm vụ dẫn đến thất thu thuế. Đánh giá thực trạng vi phạm về thuế và hải quan, tại Hội nghị tổng kết mới đây giữa Bộ Tài chính và Bộ Công an, Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn cho rằng, muốn chống thất thu thuế, ngành Thuế, Hải quan cần phòng chống từ bên trong; bởi qua tổng kết thì có trên 6% các vụ việc vi phạm trong lĩnh vực thuế, hải quan đều có liên quan đến lực lượng bên trong.

Đối với rủi ro bên trong, giải quyết bằng cách tăng cường kiểm soát nội bộ, đẩy mạnh chế độ thanh tra công vụ. Đối với rủi ro bên ngoài, trên cơ sở nhận diện các rủi ro, tùy vào từng lĩnh vực, chúng ta lựa chọn cách thức phân tích rủi để áp dụng: đối với công tác thanh tra thuế sử dụng kỹ thuật đánh giá định lượng các chỉ số hoạt động của DN; đối với công tác kiểm tra sử dụng phương pháp phân tích bán định lượng; đối với công tác hoàn thuế sử dụng phương pháp phân tích rủi ro đơn giản, đó là dựa trên kết quả phân loại tín nhiệm DN (hình 2).

Đối với rủi ro khách quan, dựa vào các rủi ro, chúng ta phân tích, đo lường (xác định) và nên xếp loại thành 3 hạng như sau: Rủi ro mức cao, rủi ro mức trung bình và  rủi ro mức thấp như sau:

Vấn đề cốt lõi ở đây là xác định bảng phân loại mức độ tín nhiệm cho phù hợp với từng địa phương, tức có tính đến độ nhạy của các chỉ số đặc thù, trên cơ sở các quy chuẩn đã được tiến hành và sử dụng trước đó. Thực tế có nhiều cách tiếp cận, định nghĩa khác nhau về tín nhiệm DN, song chung quy tín nhiệm DN được hiểu như sau: xếp hạng tín nhiệm DN là đánh giá năng lực tài chính, tình hình hoạt động hiện tại (cả yếu tố tuân thủ pháp luật thuế) và triển vọng phát triển trong tương lai của DN được xếp hạng từ đó xác định được mức độ rủi ro không trả được nợ, khả năng trả nợ cũng như sự chấp hành chính sách thuế trong tương lai.

Quy trình xếp hạng tín nhiệm DN cần dựa trên các thông tin cơ bản: Phân loại DN theo qui mô và ngành nghề kinh doanh. Trước hết DN được chia thành 3 nhóm theo qui mô DN lớn, DN vừa và DN nhỏ bằng cách cho điểm ở các chỉ tiêu lao động, vốn, doanh thu, tài sảnSau khi phân loại theo quy mô sẽ xác định ngành nghề kinh doanh của DN dựa trên cơ sở đối chiếu ngành kinh doanh chính của DN có tỷ trọng lớn nhất hoặc chiếm từ 40% doanh thu trở lên theo 4 nhóm ngành: Nông-Lâm-Ngư nghiệp, Thương mại-dịch vụ, Xây dựng và Công nghiệp. Trên cơ sở ngành nghề và qui mô, sử dụng các bảng chấm điểm tương ứng với ngành nghề kinh doanh chính của DN. Ngoài ra còn sử dụng các chỉ tiếu chấm điểm khác như các chỉ tiêu dự báo nguy cơ tài chính của DN dựa trên các tiêu chí bao gồm: triển vọng ngành, chính sách của nhà nước tác động đến DN, tuân thủ pháp luật thuế và nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn….Trên cơ sở bảng điểm tổng hợp, tiến hành xếp hạng tín nhiệm DN và phân thành 3 nhóm rủi ro như trên./. 

Bộ chỉ tiêu tham khảo

Bộ chỉ số tiêu chí gồm 12 chỉ số tiêu chí bắt buộc và 33 chỉ số tiêu chí gợi ý, tham khảo bổ sung lựa chọn người nộp thuế (NNT) có dấu hiệu rủi ro để lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm.

Việc đánh giá xếp hạng rủi ro đối với NNT để lập kế hoạch hàng năm được thực hiện tự động, tập trung bằng hệ thống quản lý rủi ro theo quy định. Thông tin sử dụng để đánh giá xếp hạng rủi ro đối với NNT bao gồm: thông tin về NNT trên hệ thống cơ sở dữ liệu của ngành thuế; thông tin về NNT thu thập được trong quá trình quản lý, giám sát, kiểm tra, thanh tra NNT; thông tin về NNT do các cơ quan, đơn vị liên quan cung cấp. Các thông tin được cập nhật thường xuyên, đầy đủ vào hệ thống cơ sở dữ liệu về NNT và hệ thống quản lý rủi ro để đảm bảo việc đánh giá xếp hạng rủi ro đối với NNT chính xác, kịp thời.

          Theo đó, những doanh nghiệp có những tiêu chí sau đây thì xếp hạng rủi ro cao, có thể sẽ đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra:

          – Doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh chính thuộc Nhóm ngành nghề kinh doanh có rủi ro cao như: khai thác đất đá, cát sỏi, …

          – Tỷ lệ “Thuế TNDN của hoạt động sản xuất kinh doanh/Doanh thu thuần” thấp hơn so với năm trước hoặc thấp hơn so với trung bình ngành (Trung bình ngành là giá trị được xác định bằng số trung vị theo cách tính tứ phân vị của các doanh nghiệp có cùng ngành nghề hoạt động sản xuất kinh doanh).

          – Tỷ lệ “Thuế GTGT phát sinh/Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ” của doanh nghiệp so với trung bình ngành và so với năm trước liền kề là biến động giảm.

          – Doanh nghiệp có tỷ lệ biến động “Tổng doanh thu GTGT hàng hóa dịch vụ bán ra so với Tổng doanh thu thuần bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ và Thu nhập khác” trong năm đánh giá có tỷ lệ > 5%.

          – Tỷ lệ “Doanh thu thuần bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ/Vốn chủ sở hữu” của doanh nghiệp trong năm đánh giá so với trung bình ngành có tỷ lệ > 2 lần.

          – Tỷ lệ “Tổng các khoản phải trả người bán/Tổng chi phí” năm nay so với năm trước tăng 50% trở lên và so với trung bình ngành tăng 10% trở lên.

          – Tỷ lệ “Tổng các khoản người mua trả tiền trước/Doanh thu thuần” năm nay so với năm trước tăng từ 50% trở lên và so với trung bình ngành tăng 10% trở lên.

          – Tỷ lệ “Tổng các khoản dự phòng/Tổng chi phí” năm nay so với năm trước tăng 50% trở lên và so với trung bình ngành tăng 10% trở lên.

          – Trong vòng 24 tháng tính đến trước thời điểm đánh giá, doanh nghiệp bị xử lý vi phạm hành chính về thuế đối với hành vi vi phạm về thủ tục thuế, ấn chỉ thuế; xử phạt vi phạm liên quan đến lĩnh vực kế toán, kiểm toán, lĩnh vực khác.

          – Kỳ đã được thanh tra, kiểm tra gần nhất của doanh nghiệp tính đến thời điểm đánh giá: 2 năm trở lên.

          – Số thuế truy thu, truy hoàn, phạt vi phạm hành chính đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp, tăng số tiền thuế phải hoàn, tăng số tiền thuế được miễn giảm của kỳ thanh tra, kiểm tra gần nhất của doanh nghiệp tính đến thời điểm đánh giá thuộc nhóm cao.

          Doanh nghiệp cần phải chú ý đảm bảo kê khai thuế đầy đủ, đúng quy định, hạch toán chính xác, minh bạch. Như vậy thì doanh nghiệp sẽ xếp vào hạng rủi ro thấp, dẫn đến sẽ không đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế.

Quy định trước đó

1. Điều 11, Thông tư 39/2014/TT-BTC qui định: Doanh nghiệp thuộc loại rủi ro cao về thuế là những doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu dưới 15 tỷ đồng và có một trong các dấu hiệu sau:

– Không có quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp các cơ sở vật chất sau: nhà máy, xưởng sản xuất, kho hàng, phương tiện vận tải, cửa hàng và các cơ sở vật chất khác.

– Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực khai thác đất, đá, cát, sỏi.

– Doanh nghiệp có giao dịch qua ngân hàng đáng ngờ theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.

– Doanh nghiệp có doanh thu từ việc bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp khác mà chủ các doanh nghiệp này có mối quan hệ cha mẹ, vợ chồng, anh chị em ruột hoặc quan hệ liên kết sở hữu chéo chiếm tỷ trọng trên 50% trên tổng doanh thu kinh doanh trên Tờ khai quyết toán thuế TNDN của năm quyết toán.

– Doanh nghiệp không thực hiện kê khai thuế theo quy định: Không nộp hồ sơ khai thuế hoặc nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc kể từ ngày bắt đầu hoạt động kinh doanh theo giấy phép đăng ký kinh doanh; nghỉ kinh doanh quá thời hạn đã thông báo tạm nghỉ kinh doanh với cơ quan thuế và cơ quan thuế kiểm tra xác nhận doanh nghiệp có sản xuất kinh doanh nhưng không kê khai thuế; không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ đã đăng ký kinh doanh và không khai báo với cơ quan thuế hoặc cơ quan thuế kiểm tra không xác định được nơi đăng ký thường trú, tạm trú của người đại diện theo pháp luật, chủ doanh nghiệp.

– Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bị khởi tố về tội trốn thuế, tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.

– Doanh nghiệp đang sử dụng hóa đơn tự in, đặt in có sự thay đổi địa chỉ kinh doanh từ 2 lần trở lên trong vòng 12 tháng mà không khai báo theo quy định hoặc không kê khai, nộp thuế ở nơi đăng ký mới theo quy định.

– Doanh nghiệp có dấu hiệu bất thường khác theo tiêu chí đánh giá rủi ro về thuế của cơ quan thuế.

2. Điều 16 Thông tư 204/2015/TT-BTC ngày 21 tháng 12 năm 2015 quy định:       

Người nộp thuế bị đánh giá có rủi ro cao là người nộp thuế tuân thủ pháp luật ở mức thấp thuộc một trong các trường hợp dưới đây:

– Tính đến thời điểm đánh giá thuộc một trong các trường hợp dưới đây:

+ Chưa kê khai, nộp hồ sơ khai thuế và nộp thuế đầy đủ, đúng hạn ít nhất 01/3 (một phần ba) số tờ khai theo quy định trong vòng thời gian 12 tháng;

+ Các kỳ kê khai âm về thuế giá trị gia tăng liên tục trên mức trung bình so với bình quân chung của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cùng lĩnh vực, ngành nghề;

+ Có số lỗ lũy kế vượt quá 50% (năm mươi phần trăm) vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tính đến thời điểm đánh giá;

+ Người nộp thuế thuộc trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, nợ tiền chậm nộp, tiền phạt, phí, lệ phí hoặc các khoản thu khác phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.

– Trong thời gian 02 (hai) năm liên tục trở về trước tính đến ngày đánh giá; hoặc từ ngày thành lập đến ngày đánh giá đối với NNT thành lập chưa tròn 02 (hai) năm thuộc một trong các trường hợp dưới đây:

+ Hai (02) lần trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế, ấn chỉ thuế với tổng mức phạt tiền vượt thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm về thủ tục thuế của Chi cục trưởng Chi cục Thuế theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính về thuế.

+ Bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi trốn thuế, gian lận thuế; hoặc bị xử phạt vi phạm trong lĩnh vực kế toán.

+ Bị cơ quan thuế xử lý hành chính về hành vi không chấp hành quyết định kiểm tra, thanh tra thuế, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.

+ Có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, bị khởi tố, điều tra.

+ Bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền qua thanh tra, kiểm tra, quản lý, giám sát đánh giá không tuân thủ pháp luật thuế, pháp luật hải quan.

– Có hành vi sử dụng ấn chỉ thuế bất hợp pháp hoặc sử dụng bất hợp pháp ấn chỉ thuế.

VI. Tình huống cụ thể về phân tích thông tin rủi ro người nộp thuế phục vụ công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế

Áp dụng phân tích thông tin rủi ro người nộp thuế phục vụ công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế:

Quyết định số 2176/QĐ-TCT ngày 10 tháng 11 năm 2015 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế ban hành Bộ tiêu chí phân tích thông tin rủi ro người nộp thuế phục vụ công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế.

Bộ tiêu chí phân tích thông tin rủi ro người nộp thuế (NNT) được Cơ quan Thuế các cấp áp dụng để phân tích thông tin rủi ro của người nộp thuế phục vụ công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế.

Qui trình phân tích, đánh giá thông tin rủi ro người nộp thuế phục vụ công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế như sau:

Bước 1. Thu thập thông tin người nộp thuế (Thu thập thông tin về người nộp thuế từ cơ sở dữ liệu ngành thuế; Thu thập, khai thác thông tin dữ liệu về người nộp thuế từ các nguồn thông tin bên ngoài; Đánh giá dữ liệu)

Bước 2. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá thông tin rủi ro của NNT(Thiết lập tiêu chí; Thử nghiệm bộ tiêu chí; Xây dựng bộ tiêu chí chính thức và Phê duyệt; Phân ngưỡng phân loại quy mô doanh nghiệp)

Bước 3. Lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế ( Lập kế hoạch thanh tra thuế năm; Lập kế hoạch kiểm tra; Điều chỉnh, bổ sung kế hoạch thanh tra, kiểm tra; Đánh giá bộ tiêu chí sau khi thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế)

Bộ tiêu chí phân tích thông tin rủi ro phục vụ lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế được xây dựng trên nguyên tắc:

– Đánh giá lịch sử tuân thủ pháp luật về thuế của NNT gồm:

+ Lịch sử tuân thủ khai thuế, tính thuế.

+ Lịch sử tuân thủ nộp thuế.

+ Mức độ tuân thủ qua kết quả thanh tra, kiểm tra thuế.

– Đánh giá sự biến động về kê khai thuế của NNT qua các năm.

– Đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của NNT.

Nguồn dữ liệu phân tích trên cơ sở dữ liệu ngành Thuế hiện có. Cụ thể bao gồm các nguồn dữ liệu sau đây:

           – Thông tin đăng ký thuế.

           – Thông tin từ các tờ khai thuế (GTGT, TNDN…).

           – Thông tin về tình hình thực hiện tuân thủ nghĩa vụ thuế của NNT.

           – Thông tin từ Báo cáo tài chính doanh nghiệp.

           – Thông tin về kết quả thanh tra, kết quả kiểm tra.

           – Thông tin khác có liên quan.

Bộ tiêu chí đánh giá rủi ro:

Bộ tiêu chí đánh giá rủi ro được xây dựng gồm 20 tiêu chí, chia thành 5 nhóm:

STT

Tiêu chí đánh giá rủi ro

I

Nhóm I: Đánh giá về tuân thủ khai thuế, tính thuế

 

Tiêu chí 1: Chậm nộp hồ sơ khai thuế so với thời hạn quy định (bao gồm tháng, quý, năm)

II

Nhóm II: Phân loại doanh nghiệp theo loại hình kinh tế

 

Tiêu chí 2: Phân loại doanh nghiệp theo loại hình kinh tế

III

Nhóm III: Đánh giá sự biến động về kê khai giữa các năm

 

Tiêu chí 3: So sánh biến động của tỷ lệ “Thuế TNDN phát sinh/ doanh thu” giữa các năm

 

Tiêu chí 4: So sánh biến động của tỷ lệ “Thuế GTGT phát sinh/ doanh thu hàng hoá dịch vụ bán ra” giữa các năm

IV

Nhóm IV: Đánh giá về tình hình tài chính

 

Tiêu chí 5: Tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh/ doanh thu thuần

 

Tiêu chí 6: Tỷ lệ (lợi nhuận trước thuế + chi phí lãi vay)/ doanh thu thuần

 

Tiêu chí 7: Tỷ lệ số Thuế Thu nhập doanh nghiệp được miễn giảm trong kỳ/ Thu nhập chịu thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh

 

Tiêu chí 8: Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế/ vốn chủ sở hữu

 

Tiêu chí 9: Tỷ lệ giá vốn hàng bán/ doanh thu thuần

 

Tiêu chí 10: Tỷ lệ chi phí bán hàng/ doanh thu thuần

 

Tiêu chí 11: Tỷ lệ chi phí quản lý/ doanh thu thuần

 

Tiêu chí 12: Tỷ lệ Tổng dự phòng so với tổng chi phí sản xuất kinh doanh

 

Tiêu chí 13: Tỷ lệ Tổng doanh thu GTGT hàng hoá dịch vụ bán ra so với Tổng doanh thu thuần bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ và Thu nhập khác

 

Tiêu chí 14:Tỷ lệ hàng tồn kho so với doanh thu thuần

 

Tiêu chí 15: Hệ số khả năng thanh toán tổng quát

 

Tiêu chí 16: Doanh nghiệp có quy mô kinh doanh bất hợp lý (doanh thu thuần bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ cao gấp 05 lần so với vốn chủ sở hữu trở lên)

 

Tiêu chí 17: Số lỗ luỹ kế trong vòng 3 năm gần nhất quá vốn chủ sở hữu nhưng tiếp tục đầu tư mở rộng kinh doanh

V

Nhóm V: Lịch sử thanh tra của NNT

 

Tiêu chí 18: Kỳ đã được thanh tra, kiểm tra gần nhất

 

Tiêu chí 19: Số thuế truy thu tuyệt đối của kỳ thanh tra, kiểm tra gần nhất

 

Tiêu chí 20: Số thuế truy hoàn tuyệt đối của kỳ thanh tra, kiểm tra gần nhất

 

Căn cứ vào kết quả xếp loại thông tin rủi ro của NNT, căn cứ vào các thông tin thu thập từ các đơn vị bên ngoài về mức độ vi phạm của NNT, căn cứ vào việc đánh giá dữ liệu trong quá trình rà soát.

Căn cứ vào nguồn lực cán bộ thanh tra của đơn vị, lựa chọn số lượng các doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao để thực hiện xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra.

Căn cứ vào chương trình trọng điểm thanh tra hàng năm, lựa chọn doanh nghiệp đưa vào kế hoạch thanh tra theo ngành, quy mô doanh nghiệp, địa bàn hoạt động sản xuất kinh doanh. Các đối tượng được lựa chọn bao gồm:

– 80% thuộc nhóm có đầy đủ dữ liệu và có điểm rủi ro cao nhất;

– 5% lựa chọn ngẫu nhiên trong phạm vi những doanh nghiệp có điểm rủi ro thấp;

– 15% bao gồm các doanh nghiệp được lựa chọn từ danh sách doanh nghiệp có thời gian hoạt động dưới 12 tháng, danh sách các doanh nghiệp có tăng, giảm đột biến; từ danh sách các doanh nghiệp có độ rủi ro cao thu thập từ các nguồn thông tin bên ngoài và từ lựa chọn ngẫu nhiên trong phạm vi các doanh nghiệp không có đủ dữ liệu để đánh giá rủi ro.

Tỷ lệ trên tính theo số cuộc thanh tra dự kiến của năm kế hoạch.

Công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế được ngành thuế sử dụng ứng dụng TPR chạy tập trung Wesite để lập kế hoạch./.

Liên hệ nếu quý khách cần tư vấn thêm: Ms Huyền Hotline/Zalo – 094 719 2091

Email: pham.thi.thu.huyen@manaboxvn.jp.

_______________

Công ty TNHH Manabox Việt Nam
Phòng 701, tầng 7, tòa nhà 3D center, số 3 Duy Tân, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Facebook: https://www.facebook.com/ManaboxVietnam
Nhóm Zalo để thảo luận Miễn phí và hỗ trợ mùa quyết toán: https://zalo.me/g/ryjjoq044
 

    Liên hệ với chúng tôi




    You cannot copy content of this page.

    Please contact with Manabox for more support.