A710: Xác định mức trọng yếu

Chương trình kiểm toán được tham khảo từ tài liệu do Hội kiểm toán Viên hành nghề Việt Nam VACPA chia sẻ: A710: Xác định mức trọng yếu

Chuẩn mực và người thực hiện

CMKiT số 320 – “Mức trọng yếu trong lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán” yêu cầu KTV phải xác định mức trọng yếu trong giai đoạn lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán.

Người thực hiện Mẫu này là Trưởng nhóm kiểm toán và người phê duyệt là Chủ nhiệm kiểm toán và Thành viên BGĐ phụ trách tổng thể cuộc kiểm toán.

Thời điểm thực hiện

Việc xác định mức trọng yếu được thực hiện ngay đầu giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán và tiếp tục được xem xét hoặc cập nhật trong cả quá trình kiểm toán (nếu cần) cho đến cuối giai đoạn tổng hợp – lập báo cáo.

Cách thực hiện

Để đảm bảo tính nhất quán, DNKiT có thể thiết lập tài liệu hướng dẫn cho toàn DNKiT cách xác định mức trọng yếu ban đầu, bao gồm việc lựa chọn tiêu chí phù hợp. Tuy nhiên, tiêu chí thực tế được sử dụng sẽ phụ thuộc vào xét đoán chuyên môn trong hoàn cảnh cụ thể của đơn vị được kiểm toán. Khi xác định tiêu chí phù hợp để sử dụng, KTV cần xem xét các vấn đề được nêu trong CMKiT số 320 và các hướng dẫn dưới đây và tìm hiểu quan điểm và kỳ vọng của BGĐ và BQT đơn vị được kiểm toán.

Không giảm mức trọng yếu tổng thể do rủi ro kiểm toán cao

Tránh sai lầm giảm mức trọng yếu tổng thể (đối với BCTC) do rủi ro kiểm toán được đánh giá cao. Mức trọng yếu tổng thể dựa trên nhu cầu thông tin của người sử dụng báo cáo chứ không dựa trên mức độ rủi ro của số dư cụ thể được kiểm toán. Hạ thấp mức trọng yếu tổng thể có nghĩa là: 

  • Quyết định của người sử dụng BCTC bị ảnh hưởng bởi rủi ro kiểm toán hơn là bởi thông tin được trình bày trên BCTC; và
  • KTV cần thực hiện thêm công việc kiểm toán để đảm bảo rằng không có sai sót nào trong BCTC mà khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, vượt quá ngưỡng mức trọng yếu tổng thể.

Phương pháp tốt hơn để xử lý rủi ro kiểm toán là thiết lập mức trọng yếu thực hiện ở cấp độ nhóm giao dịch hoặc số dư TK ở mức thấp hơn. Điều này đảm bảo là công việc thực hiện đủ để phát hiện các sai sót, mà không phải giảm mức trọng yếu tổng thể. Nó cũng tạo ra khoảng đệm an toàn cho các sai sót không được phát hiện khi thực hiện công việc kiểm toán. Xác định mức trọng yếu tổng thể bằng cách tham khảo những người sử dụng BCTC, sau đó xác định mức trọng yếu thực hiện cho mục đích thiết kế các thủ tục kiểm toán tiếp theo.

Các thông tin thuyết minh, số dư và các vấn đề nhạy cảm trên BCTC

Sử dụng mức trọng yếu thực hiện cho khoản mục cụ thể để thiết kế các thủ tục kiểm toán tiếp theo nhằm xử lý các rủi ro và số dư cụ thể ở những khu vực kiểm toán nhạy cảm. 

Khi thực hiện mẫu này KTV lưu ý khi thực hiện một số bước công việc sau:

Mục “I.  XEM XÉT LỰA CHỌN TIÊU CHÍ ĐỂ XÁC ĐỊNH MỨC TRỌNG YẾU TỔNG THỂ”

Mục “1. Xác định những người sử dụng chính BCTC”

Người sử dụng BCTC: Xác định đối tượng nào có thể sử dụng BCTC. Những đối tượng này có thể gồm chủ sở hữu (và các cổ đông khác) và BQT đơn vị được kiểm toán, các tổ chức tài chính, các bên nhượng quyền, những nhà tài trợ chủ yếu, nhân viên, khách hàng, chủ nợ và các cơ quan quản lý nhà nước. Mục tiêu tổng thể của BCTC là cung cấp thông tin tài chính về đơn vị mà các thông tin này có ích cho các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, người cho vay và các chủ nợ khác trong việc ra quyết định cung cấp tài chính cho đơn vị. Những quyết định đó bao gồm việc mua, bán hoặc nắm giữ các công cụ vốn chủ sở hữu và công cụ nợ, cung cấp hoặc thanh toán các khoản vay và các hình thức tín dụng khác. Mặt khác, các cơ quan ban hành chính sách và các nhà quản lý thường là những người sử dụng chính các BCTC của đơn vị có lợi ích công chúng. Nhiều nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, người cho vay và các chủ nợ khác không thể yêu cầu đơn vị cung cấp thông tin trực tiếp cho họ và họ phải dựa vào BCTC tổng quan để thu thập phần lớn thông tin tài chính mà họ cần. Do đó, họ là những người sử dụng chính các thông tin trên BCTC tổng quan.

Mục “2. Khi lựa chọn tiêu chí phù hợp để xác định mức trọng yếu tổng thể, cùng với mục 1 ở trên, KTV phải xem xét thêm các nội dung sau”

  • Bản chất của đơn vị, chu kỳ kinh doanh của đơn vị (phát triển, trưởng thành, suy thoái…), và môi trường kinh tế và ngành nghề đơn vị hoạt động. Ở giai đoạn khác nhau của vòng đời, trọng tâm của người sử dụng và yếu tố liên quan của BCTC mà người sử dụng quan tâm có thể khác nhau;
  • Đơn vị hoạt động bằng nguồn vốn nào: Nếu đơn vị hoạt động chủ yếu dựa vào khoản vay nợ (thay vì vốn chủ sở hữu), người sử dụng BCTC có thể quan tâm nhiều hơn vào vấn đề tài sản cầm cố và các khiếu nại hơn là lợi nhuận của đơn vị;
  • Các yếu tố chính của BCTC mà người sử dụng quan tâm là gì: tức là tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, thu nhập và chi phí;
  • Thông tin nào trong các khoản mục của BCTC (tiêu chí) sẽ thu hút sự chú ý của người sử dụng nhất: Đối với một đơn vị hoạt động vì lợi nhuận, vì nhà đầu tư là người đầu tư vốn mạo hiểm, việc cung cấp BCTC đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư cũng sẽ đáp ứng nhu cầu của phần lớn người sử dụng BCTC khác. Thông thường lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh liên tục có ý nghĩa lớn nhất đối với người sử dụng BCTC. Nếu lợi nhuận trước thuế không phải là một tiêu chí phù hợp (ví dụ: đối với một tổ chức phi lợi nhuận hoặc lợi nhuận không phải là chỉ tiêu ổn định), KTV phải xem xét các chỉ tiêu khác như doanh thu, chi phí, tài sản hoặc vốn chủ sở hữu. Ví dụ: người sử dụng BCTC quan tâm các vấn đề:
  • Đánh giá hiệu quả tài chính sẽ tập trung vào lợi nhuận, doanh thu hoặc tài sản thuần; và
  • Các nguồn lực sử dụng để đạt được mục tiêu hoặc kết quả cuối cùng sẽ tập trung vào nội dung và phạm vi của các khoản doanh thu và chi phí.
  • Tiêu chí đề xuất có bị biến động không: Khi lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục biến động, các tiêu chí khác có thể phù hợp hơn, như lợi nhuận gộp hoặc tổng doanh thu. Liên quan đến tiêu chuẩn đã chọn, dữ liệu tài chính thích hợp thường bao gồm kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của kỳ kế toán trước, kết quả kinh doanh và tình hình tài chính lũy kế đến kỳ này và dự toán hoặc ước tính cho kỳ kế toán hiện tại được điều chỉnh cho những thay đổi đáng kể theo tình hình thực tế của đơn vị (ví dụ: một giao dịch hợp nhất kinh doanh quan trọng) và các thay đổi có liên quan của điều kiện môi trường ngành nghề hoặc môi trường kinh tế mà đơn vị hoạt động. Ví dụ, ban đầu mức trọng yếu tổng thể được xác định cho một đơn vị cụ thể dựa trên tỷ lệ % của chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục, trường hợp tăng hoặc giảm lợi nhuận bất thường dẫn đến KTV kết luận rằng mức trọng yếu tổng thể phù hợp hơn nếu được tính toán dựa trên chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục ổn định của kỳ kế toán trước

Mục “II. MỨC TRỌNG YẾU TỔNG THỂ, MỨC TRỌNG YẾU THỰC HIỆN, NGƯỠNG SAI SÓT KHÔNG ĐÁNG KỂ”

Bước 1: Xác định tiêu chí được sử dụng để ước tính mức trọng yếu từ các tiêu chí đã được gợi ý trong Mẫu A710, và giải thích lý do lựa chọn tiêu chí này vào trong ô tương ứng.

Các tiêu chí phù hợp thông thường được lựa chọn có thể là:

  • Lợi nhuận trước thuế;
  • Tổng doanh thu thuần;
  • Tổng chi phí;
  • Tổng vốn chủ sở hữu/Giá trị tài sản ròng;
  • Tổng tài sản.

Việc xác định tiêu chí phụ thuộc vào nhu cầu thông tin của đại bộ phận đối tượng sử dụng thông tin tài chính (nhà đầu tư, ngân hàng, công chúng, cơ quan nhà nước…).

Khi lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục của một đơn vị hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận thường xuyên ở mức thấp, có thể do Giám đốc đồng thời là người chủ sở hữu DN đã thu lại phần lớn lợi nhuận trước thuế dưới dạng tiền lương và các khoản thu nhập khác thì tiêu chí lựa chọn để xác định mức trọng yếu là lợi nhuận trước tiền lương, các khoản thu nhập khác và thuế có thể sẽ phù hợp hơn.

Khi kiểm toán các đơn vị trong lĩnh vực công, tổng chi phí hoặc chi phí thuần (chi phí trừ thu nhập) có thể là tiêu chí phù hợp cho hoạt động của từng chương trình. Khi đơn vị hoạt động trong lĩnh vực công có quản lý tài sản công, tài sản có thể là tiêu chí phù hợp để xác định mức trọng yếu.

Bước 2:  Lấy Giá trị tiêu chí được lựa chọn ghi vào ô tương ứng.

Giá trị tiêu chí thường dựa trên số liệu trước kiểm toán phù hợp với kỳ/năm mà DNKiT phải đưa ra ý kiến kiểm toán hoặc soát xét. Trong trường hợp kiểm toán giữa kỳ để phục vụ cho kiểm toán cuối năm, KTV có thể sử dụng số liệu ước tính tốt nhất cho cả năm dựa trên dự toán và số liệu thực tế đến giữa kỳ kiểm toán.

Mức trọng yếu phải được xác định gắn với BCTC mà KTV thực hiện kiểm toán. Khi BCTC được lập cho kỳ kế toán dài hơn hoặc ngắn hơn 12 tháng, ví dụ trường hợp đơn vị mới thành lập hoặc thay đổi kỳ kế toán, mức trọng yếu cần phải được xác định dựa trên BCTC được lập cho kỳ kế toán đó.

Ví dụ, ban đầu mức trọng yếu tổng thể được xác định dựa trên tỷ lệ % của tiêu chí lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục, trường hợp phát sinh tăng hoặc giảm lợi nhuận bất thường dẫn đến KTV có thể kết luận rằng mức trọng yếu tổng thể sẽ phù hợp hơn nếu được tính toán dựa trên chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục ổn định của kỳ kế toán trước.

Thu nhập từ hoạt động kinh doanh liên tục có thể được điều chỉnh cho các khoản:

  • Các khoản thu nhập hoặc chi phí không thường xuyên hoặc bất thường;
  • Các khoản như tiền thưởng cho BGĐ, có thể dựa trên lợi nhuận trước khi hạch toán các khoản thưởng hoặc các khoản thanh toán nhằm mục đích giảm thu nhập còn lại của đơn vị.

Bước 3: Lựa chọn tỷ lệ tương ứng của biểu để xác định mức trọng yếu tổng thể.

Các tỷ lệ đã ghi trong mẫu này là các tỷ lệ gợi ý mà thông lệ kiểm toán quốc tế tại Việt Nam thường áp dụng:

  • 5% đến 10% lợi nhuận trước thuế,
  • 1% đến 2% tổng tài sản,
  • 1% đến 5% vốn chủ sở hữu,
  • 0,5% đến 3% tổng doanh thu thuần,
  • 0,5% đếb 3% Tổng chi phí.

DNKiT có thể sử dụng các tỷ lệ này hoặc có thể đưa ra các tiêu chí và các mức tỷ lệ khác tùy theo chính sách của mỗi DNKiT và phù hợp với CMKiT áp dụng.

KTV phải sử dụng xét đoán chuyên môn khi xác định tỷ lệ % áp dụng cho tiêu chí đã lựa chọn. Tỷ lệ % và tiêu chí được lựa chọn thường có mối liên hệ với nhau, như tỷ lệ % áp dụng cho mức lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục thường cao hơn tỷ lệ % áp dụng cho doanh thu do số tuyệt đối của doanh thu và lợi nhuận trước thuế thường chênh lệch nhau đáng kể và KTV có xu hướng cân bằng mức trọng yếu cho từng bộ phận trên BCTC dù áp dụng bất kì tiêu chí nào. Mức trọng yếu là vấn đề thuộc xét đoán chuyên môn hơn là việc tính toán số học. Do đó không có hướng dẫn cụ thể trong CMKiT. Tuy nhiên, đối với đa số các tổ chức kinh doanh, lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục (5% đến 10%) thường được dùng trên thực tế vì có ảnh hưởng lớn nhất đến người sử dụng BCTC. Nếu đây không phải là tiêu chí phù hợp (như đối với tổ chức phi lợi nhuận hoặc khi lợi nhuận không phải là một tiêu chí hợp lý), có thể xem xét các tiêu chí khác (như: Doanh thu hoặc Chi phí: 0,5% đến 3%; Tài sản 1 đến 2%; hoặc Vốn chủ sở hữu: 1% đến 5%).    

Bước 4:  Xác định mức trọng yếu tổng thể = Giá trị tiêu chí x Tỷ lệ %

Bước 5: So sánh mức trọng yếu tổng thể được xác định với kỳ kế toán trước

Trường hợp mức trọng yếu tổng thể của kỳ kế toán hiện tại thấp hơn kỳ trước, KTV phải xem xét ảnh hưởng của sai sót đối với số dư đầu kỳ. Ví dụ khi doanh thu và thu nhập giảm đáng kể so với kỳ trước thì mức trọng yếu tổng thể phải thấp hơn. Sai sót có thể tồn tại trong số dư đầu kỳ do mức trọng yếu sử dụng trong cuộc kiểm toán kỳ trước cao hơn. Để giảm thiểu rủi ro có sai sót trọng yếu xảy ra đối với số dư đầu kỳ có ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính kỳ hiện tại, KTV phải thực hiện các thủ tục kiểm toán bổ sung trên số dư đầu kỳ của các khoản mục tài sản và công nợ.

Bước 6:  Xác định mức trọng yếu thực hiện.

Mức trọng yếu thực hiện là một mức giá trị hoặc các mức giá trị do KTV xác định nhằm giảm khả năng sai sót tới một mức độ thấp hợp lý để tổng hợp ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh và không được phát hiện không vượt quá mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC.

Việc xác định mức trọng yếu thực hiện không đơn thuần là một phép tính số học như 80% của mức trọng yếu tổng thể. Nếu chỉ tính toán đơn giản hóa như vậy có thể bỏ qua những yếu tố rủi ro cụ thể có thể liên quan đến đơn vị được kiểm toán. Ví dụ, nếu có rủi ro cao do nhầm lẫn trong tính giá HTK, mức trọng yếu thực hiện có thể xác định thấp hơn và do đó KTV thực hiện công việc kiểm toán nhiều hơn để xác định được mức độ sai sót. Ngược lại, nếu rủi ro sai sót của số dư các khoản phải thu được đánh giá là thấp, mức trọng yếu thực hiện có thể tăng lên, dẫn đến các công việc kiểm toán chi tiết về số dư khoản phải thu cần thực hiện ít hơn.

Mức trọng yếu thực hiện thông thường nằm trong khoảng từ 50% – 75% so với mức trọng yếu tổng thể đã xác định ở trên. Việc chọn tỷ lệ nào áp dụng cho từng cuộc kiểm toán cụ thể là tùy thuộc vào xét đoán chuyên môn của KTV và chính sách của từng DNKiT. Tuy nhiên khi áp dụng ở cận trên và cận dưới cần giải thích lý do tại sao KTV lại chọn như vậy (ví dụ: nếu doanh thu là 7 tỷ đồng thì lấy mức trọng yếu là 3%; nếu 9 tỷ đồng lấy 2,5%; nếu 11 tỷ đồng lấy 2,2%; nếu 13 tỷ đồng lấy 2,0%…).

Mức trọng yếu thực hiện có thể thay đổi dựa trên những yếu tố rủi ro mới hoặc những phát hiện kiểm toán mà không tác động đến mức trọng yếu tổng thể. Các thay đổi trong mức trọng yếu thực hiện sẽ dẫn đến việc sửa đổi về nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán. Dĩ nhiên, nếu mức trọng yếu tổng thể thay đổi thì sự thay đổi tương ứng trong mức trọng yếu thực hiện có thể là cần thiết.

Mức trọng yếu thực hiện sẽ quyết định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục kiểm toán cần phải thực hiện.

Phạm vi của một thủ tục kiểm toán đề cập đến số lượng mẫu cần kiểm tra (ví dụ: khi có rủi ro được đánh giá là cao, KTV có thể giảm mức trọng yếu thực hiện thông qua yếu tố Rủi ro lấy mẫu, do đó tăng số lượng mẫu được chọn).

KTV xác định phạm vi của một thủ tục kiểm toán được đánh giá là cần thiết sau khi xem xét mức trọng yếu, rủi ro được đánh giá và mức độ bảo đảm mà KTV cần đạt được. Khi kết hợp nhiều thủ tục kiểm toán để đáp ứng một mục tiêu kiểm toán, phạm vi của mỗi thủ tục được xem xét riêng biệt. Nói chung, phạm vi của các thủ tục kiểm toán tăng khi rủi ro có sai sót trọng yếu tăng. Ví dụ, để xử lý rủi ro có sai sót trọng yếu do gian lận được đánh giá, KTV phải tăng cỡ mẫu hoặc thực hiện các thủ tục phân tích trong thử nghiệm cơ bản ở mức độ chi tiết hơn. Tuy nhiên, việc tăng phạm vi của một thủ tục kiểm toán chỉ có hiệu quả nếu thủ tục kiểm toán thực hiện là phù hợp với từng rủi ro cụ thể.

Mức trọng yếu thực hiện cũng áp dụng cho một nhóm giao dịch, số dư TK hoặc thông tin thuyết minh để giảm thiểu khả năng sai sót tới một mức độ thấp hợp lý để tổng hợp ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh và không được phát hiện không vượt quá mức trọng yếu đối với một nhóm giao dịch, số dư TK hoặc thông tin thuyết minh.

Ví dụ: mức trọng yếu thực hiện cụ thể được xác định ở một mức thấp hơn so với mức trọng yếu thực hiện tổng thể khi kiểm tra chi phí sửa chữa và bảo trì nếu KTV đánh giá có rủi ro cao hơn về tài sản không được vốn hóa. Mức trọng yếu thực hiện cụ thể cũng có thể được sử dụng để thực hiện các thủ tục kiểm toán bổ sung đối với các khoản mục nhạy cảm do bản chất của các sai sót tiềm tàng và tính hiện hữu hơn là độ lớn về giá trị của các khoản mục này.

Bước 7:  Xác định Ngưỡng sai sót không đáng kể/ sai sót có thể bỏ qua:

Theo CMKiT số 450 (đoạn 05 và A2): KTV phải tổng hợp tất cả các sai sót đã được phát hiện trong quá trình kiểm toán, trừ những sai sót không đáng kể. KTV cần chỉ ra mức giá trị cụ thể mà sai sót dưới mức đó được coi là sai sót không đáng kể và không cần tổng hợp lại vì KTV cho rằng tổng hợp các sai sót đó không ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC. “Không đáng kể” không phải là cách gọi khác của thuật ngữ “không trọng yếu”. Các vấn đề được coi là “không đáng kể” có sự khác biệt hoàn toàn về mức độ ảnh hưởng (độ lớn) so với tính trọng yếu quy định tại CMKiT số 320 và những vấn đề đó không gây ra hậu quả đáng kể, dù xét riêng lẻ hoặc tổng hợp lại, dù đánh giá về quy mô, bản chất hoặc trong các tình huống cụ thể. Khi có bất kỳ sự không chắc chắn nào về tính “không đáng kể” của một vấn đề thì vấn đề đó không còn được coi là không đáng kể.

Mức tối đa là 5% mức trọng yếu tổng thể. Đây là mức theo thông lệ kiểm toán tốt nhất ở Việt Nam, các công ty có thể áp dụng hoặc đưa ra các mức khác theo chính sách khác của mình. Đây sẽ là ngưỡng để tập hợp các chênh lệch do kiểm toán phát hiện, được tập hợp vào Mẫu B360 – Các bút toán điều chỉnh và phân loại lại (nếu khách hàng đồng ý điều chỉnh) và Mẫu B370 – Các bút toán không điều chỉnh (nếu khách hàng không đồng ý điều chỉnh). Các chênh lệch nhỏ hơn ngưỡng sai sót này không cần phải tập hợp lại.

Áp dụng mức trọng yếu thấp hơn cho các khoản mục

CMKiT số 320 yêu cầu: Nếu có các nhóm giao dịch, số dư TK hoặc thông tin thuyết minh (sau đây gọi là “khoản mục”) có sai sót với mức thấp hơn mức trọng yếu đối với tổng thể BCTC nhưng có thể ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC thì KTV phải xác định mức trọng yếu/các mức trọng yếu áp dụng cho từng khoản mục này.

Trong Mẫu này KTV cần xác định có áp dụng mức trọng yếu thấp hơn cho các khoản mục hay không, trường hợp có áp dụng thì tiếp tục thực hiện tại Mẫu A720.

Bước 8:  Soát xét cuối cùng về mức trọng yếu.

Đánh giá ban đầu về mức trọng yếu tổng thể và mức trọng yếu thực hiện có thể thay đổi từ lúc lập kế hoạch kiểm toán ban đầu cho đến thời điểm đánh giá kết quả của các thủ tục kiểm toán. Điều này có thể do những thay đổi trong hoàn cảnh hoặc thay đổi trong hiểu biết của KTV do kết quả của việc thực hiện các thủ tục kiểm toán. Ví dụ: nếu các thủ tục kiểm toán được thực hiện trước khi kết thúc kỳ kế toán, KTV sẽ ước tính kết quả của các hoạt động và tình hình tài chính. Nếu kết quả thực tế của các hoạt động và tình hình tài chính khác biệt đáng kể, các đánh giá về mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán cũng có thể thay đổi.

Khi kết thúc quá trình kiểm toán, nếu tiêu chí được lựa chọn để xác định mức trọng yếu biến động quá lớn thì KTV phải xác định lại mức trọng yếu, giải thích lý do và cân nhắc xem có cần thực hiện bổ sung thêm thủ tục kiểm toán hay không.

Có 3 cách sửa đổi mức trọng yếu:

  • Cập nhật lại giá trị của tiêu chí xác định mức trọng yếu (benchmark);
  • Sửa đổi tiêu chí xác định mức trọng yếu;
  • Sửa đổi tỷ lệ % tính mức trọng yếu.

Trường hợp KTV nhận thấy cần phải xác định lại mức trọng yếu và mức trọng yếu xác định lại thấp hơn so với mức trọng yếu kế hoạch, nghĩa là phạm vi và khối lượng các thủ tục kiểm toán cần thực hiện sẽ lớn hơn so với thiết kế ban đầu. Trường hợp này KTV cần đánh giá lại sự phù hợp của các công việc kiểm toán đã thực hiện để đánh giá liệu có cần thiết phải thực hiện thêm các thủ tục kiểm toán nhằm thu thập các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp hay không. Chẳng hạn:

  • Giảm mức độ rủi ro kiểm soát bằng cách mở rộng hoặc thực hiện thêm thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm soát; hoặc
  • Giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm vi của những thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.

Liên kết với giấy làm việc khác

Liên kết với Mẫu A810, A820, A720 và tất cả các giấy làm việc trong các phần hành kiểm toán khác để xác định quy mô mẫu, đánh giá rủi ro sai sót trọng yếu và các xét đoán chuyên môn khác.

Liên hệ nếu quý khách cần tư vấn thêm: Ms Huyền Hotline/Zalo – 094 719 2091

Email: pham.thi.thu.huyen@manaboxvn.jp.

_______________

Công ty TNHH Manabox Việt Nam
Phòng 701, tầng 7, tòa nhà 3D center, số 3 Duy Tân, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Facebook: https://www.facebook.com/ManaboxVietnam

    Liên hệ với chúng tôi




    You cannot copy content of this page.

    Please contact with Manabox for more support.