IFRS 15 Ghi nhận giao dịch bán hàng: Cấp giấy phép

Theo IFRS 15, việc Ghi nhận giao dịch bán hàng: Cấp giấy phép theo tiêu chuẩn quốc tế về ghi nhận doanh thu từ các hợp đồng với khách hàng, các doanh nghiệp cần lưu ý

Tóm tắt

Giấy phép được cung cấp trong hợp đồng cho phép khách hàng sử dụng tài sản sở hữu trí tuệ của đơn vị, bao gồm phần mềm, công nghệ, truyền thông và giải trí, nhượng quyền thương mại, cũng như bằng sáng chế và bản quyền.

Đơn vị có thể cung cấp một hoặc nhiều giấy phép và đồng thời cam kết chuyển giao hàng hóa hoặc dịch vụ khác cho khách hàng.

Trong trường hợp giấy phép không tách biệt với các sản phẩm hoặc dịch vụ khác, nó được xem là một nghĩa vụ thực hiện duy nhất. Nếu giấy phép tách biệt, nó sẽ được xem xét như một nghĩa vụ thực hiện riêng biệt, và việc chuyển giao giấy phép có thể diễn ra tại một thời điểm cụ thể hoặc trong một khoảng thời gian.

Trích dẫn bản dịch – Cấp giấy phép

B52     Một giấy phép tạo nên quyền của khách hàng đối với tài sản sở hữu trí tuệ của đơn vị. Giấy phép đối với tài sản sở hữu trí tuệ có thể bao gồm, nhưng không giới hạn ở các loại giấy phép được nêu sau đây:

(a)   phần mềm và công nghệ;

(b)   phim ảnh, âm nhạc và các dạng truyền thông và giải trí khác;

(c)   nhượng quyền thương mại; và

(d)   Bằng sáng chế, thương hiệu, bản quyền.

B53     Bên cạnh cam kết cấp một hoặc nhiều giấy phép cho khách hàng, đơn vị cũng có thể cam kết chuyển giao các hàng hóa hoặc dịch vụ khác cho khách hàng. Các cam kết đó có thể được quy định rõ ràng trong hợp đồng hoặc ngầm định theo thông lệ kinh doanh, chính sách đã công bố hoặc các tuyên bố cụ thể của đơn vị (xem đoạn 24). Cũng như với các loại hợp đồng khác, khi một hợp đồng với khách hàng bao gồm một cam kết cấp một hoặc nhiều giấy phép bên cạnh các hàng hóa hoặc dịch vụ đã cam kết khác, đơn vị phải áp dụng quy định tại các đoạn 22-30 để xác định từng nghĩa vụ thực hiện trong hợp đồng.

B54     Nếu cam kết cấp giấy phép không tách biệt với các hàng hóa hoặc dịch vụ đã cam kết khác trong hợp đồng theo quy định tại các đoạn 26-30, đơn vị phải kế toán cam kết cấp giấy phép và các hàng hóa hoặc dịch vụ đã cam kết đó như một nghĩa vụ thực hiện duy nhất. Các ví dụ về giấy phép không tách biệt với hàng hóa hoặc dịch vụ đã cam kết trong hợp đồng bao gồm:

(a)   giấy phép cấu thành một bộ phận của một hàng hóa hữu hình và là bộ phận không tách rời khỏi chức năng của hàng hóa; và

(b)   giấy phép mà khách hàng chỉ có thể hưởng lợi khi kết hợp giấy phép đó với một dịch vụ có liên quan (như một dịch vụ trực tuyến cung cấp bởi đơn vị cho phép khách hàng truy cập nội dung thông qua việc cấp phép).

B55   Nếu một giấy phép là không tách biệt, đơn vị phải áp dụng quy định tại các đoạn 31-38 để xác định nghĩa vụ thực hiện đó (bao gồm giấy phép đã cam kết) là một nghĩa vụ thực hiện được hoàn thành trong một khoảng thời gian hay tại một thời điểm.

B56     Nếu cam kết cấp giấy phép là tách biệt với các hàng hóa hoặc dịch vụ cam kết khác trong hợp đồng và do đó, cam kết cấp giấy phép là một nghĩa vụ thực hiện riêng biệt, đơn vị phải xác định giấy phép được chuyển giao cho khách hàng tại một thời điểm hoặc trong một khoảng thời gian. Khi xác định điều này, đơn vị phải xem xét liệu bản chất của cam kết cấp giấy phép cho khách hàng có phải là cung cấp cho khách hàng một trong những điều sau hay không:

(a)     quyền được tiếp cận tài sản sở hữu trí tuệ của đơn vị tồn tại trong suốt thời hạn hiệu lực của giấy phép; hay

(b)   quyền sử dụng tài sản sở hữu trí tuệ của đơn vị khi tài sản sở hữu trí tuệ đó hiện hữu tại thời điểm giấy phép được cấp.

Xác định bản chất cam kết của đơn vị

B57   Đã xóa bỏ

B58   Bản chất của cam kết cấp giấy phép là một cam kết cấp quyền được tiếp cận tài sản sở hữu trí tuệ của đơn vị nếu tất cả những tiêu chí sau đều thỏa mãn:

(a)          hợp đồng quy định hoặc khách hàng kỳ vọng một cách hợp lý rằng đơn vị sẽ thực hiện các hoạt động ảnh hưởng đáng kể đến tài sản sở hữu trí tuệ mà khách hàng có quyền theo giấy phép (xem đoạn B59 và B59A);

(b)          quyền tạo ra bởi giấy phép trực tiếp khiến cho khách hàng chịu ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực từ các hoạt động của đơn vị như được xác định trong đoạn B58(a); và

(c)          các hoạt động đó không dẫn đến việc chuyển giao một hàng hóa hoặc dịch vụ cho khách hàng khi các hoạt động đó diễn ra (xem đoạn 25).

B59     Các yếu tố có thể chỉ ra khách hàng có thể kỳ vọng một cách hợp lý rằng đơn vị sẽ thực hiện các hoạt động có ảnh hưởng đáng kể tới tài sản sở hữu trí tuệ bao gồm: các thông lệ kinh doanh của đơn vị, các chính sách đã công bố hoặc các tuyên bố cụ thể. Mặc dù không có tính quyết định nhưng việc tồn tại một lợi ích kinh tế chung (ví dụ phí bản quyền dựa trên doanh số) giữa đơn vị và khách hàng liên quan đến tài sản sở hữu trí tuệ mà khách hàng có quyền cho thấy khách hàng có thể kỳ vọng một cách hợp lý là đơn vị sẽ thực hiện các hoạt động đó.

B59A Các hoạt động của đơn vị gây ảnh hưởng đáng kể tới tài sản sở hữu trí tuệ mà khách hàng có quyền khi một trong hai điều sau thỏa mãn:

(a)     Các hoạt động đó được dự kiến làm thay đổi đáng kể hình thức (ví dụ thiết kế, nội dung) hoặc chức năng (ví dụ khả năng thực hiện một chức năng, nhiệm vụ) của tài sản sở hữu trí tuệ; hoặc

(b)     Khả năng khách hàng có được lợi ích từ tài sản sở hữu trí tuệ phần lớn phát sinh từ  (phụ thuộc vào) các hoạt động đó. Ví dụ, lợi ích từ thương hiệu phần lớn phát sinh từ (phụ thuộc vào) các hoạt động đang diễn ra của đơn vị mà chúng hỗ trợ và duy trì giá trị của tài sản sở hữu trí tuệ.

Do vậy, nếu tài sản sở hữu trí tuệ có chức năng riêng biệt đáng kể mà khách hàng có quyền thì phần lớn lợi ích của tài sản sở hữu trí tuệ phải được tạo ra từ chức năng đó. Kết quả là khả năng khách hàng có được lợi ích từ tài sản sở hữu trí tuệ đó sẽ không bị ảnh hưởng đáng kể bởi các hoạt động của đơn vị, trừ khi những hoạt động này thay đổi đáng kể hình thức hoặc chức năng của chúng. Loại tài sản sở hữu trí tuệ thường có chức năng riêng biệt đáng kể bao gồm: phần mềm, hợp chất sinh học hoặc công thức chế tạo thuốc và nội dung các sản phẩm truyền thông hoàn thiện (ví dụ bộ phim, chương trình truyền hình và bản ghi âm ca nhạc).

B60     Nếu các tiêu chí quy định trong đoạn B58 được thỏa mãn, đơn vị phải kế toán cam kết cấp giấy phép như một nghĩa vụ thực hiện được hoàn thành trong một khoảng thời gian bởi vì khách hàng sẽ đồng thời tiếp nhận và sử dụng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ của đơn vị là cung cấp quyền được tiếp cận với tài sản sở hữu trí tuệ (xem đoạn 35(a)). Đơn vị phải áp dụng quy định tại các đoạn 39-45 nhằm lựa chọn một phương pháp thích hợp để đo lường tiến độ hoàn thành nghĩa vụ thực hiện là cung cấp quyền tiếp cận.

B61     Nếu các tiêu chí quy định trong đoạn B58 không được thỏa mãn thì bản chất cam kết của đơn vị là cấp quyền sử dụng tài sản sở hữu trí tuệ khi tài sản sở hữu trí tuệ đó tồn tại (dưới dạng hình thức và chức năng) tại thời điểm giấy phép được cấp cho khách hàng. Điều này có nghĩa là khách hàng có thể quyết định việc sử dụng và thu được phần lớn lợi ích còn lại từ giấy phép tại thời điểm giấy phép được chuyển giao. Đơn vị phải kế toán cam kết cấp quyền sử dụng tài sản sở hữu trí tuệ như một nghĩa vụ thực hiện được hoàn thành tại một thời điểm. Đơn vị phải áp dụng đoạn 38 để xác định thời điểm mà giấy phép được chuyển giao cho khách hàng, tuy nhiên doanh thu không thể được ghi nhận cho một giấy phép cấp quyền sử dụng tài sản sở hữu trí tuệ của đơn vị trước khoảng thời gian mà khách hàng có thể sử dụng và hưởng lợi từ giấy phép đó. Ví dụ, nếu thời hạn của giấy phép sử dụng phần mềm bắt đầu trước khi đơn vị cung cấp (hoặc sẵn sàng để cung cấp) cho khách hàng một mã số cho phép ngay lập tức sử dụng phần mềm thì đơn vị không ghi nhận doanh thu trước khi mã số đó được cung cấp (hoặc sẵn sàng để cung cấp).

B62     Khi xác định giấy phép mang lại quyền tiếp cận hoặc sử dụng tài sản sở hữu trí tuệ, đơn vị không xét đến các yếu tố sau:

(a)     Hạn chế về thời gian, khu vực địa lý hoặc quyền sử dụng – những hạn chế này xác định các thuộc tính của giấy phép đã cam kết hơn là xác định liệu đơn vị hoàn thành nghĩa vụ thực hiện tại một thời điểm hay trong một khoảng thời gian.

(b)     Những đảm bảo rằng đơn vị có bằng sáng chế có hiệu lực với tài sản sở hữu trí tuệ và đơn vị sẽ bảo vệ bằng sáng chế đó khỏi việc sử dụng trái phép – một cam kết bảo vệ quyền của bằng sáng chế không phải là một nghĩa vụ thực hiện vì hành động bảo vệ bằng sáng chế sẽ bảo vệ giá trị của tài sản sở hữu trí tuệ của đơn vị và đưa ra sự đảm bảo với khách hàng rằng giấy phép đã được chuyển giao đáp ứng các quy định về giấy phép cam kết trong hợp đồng.

Phí bản quyền tính trên doanh số hoặc mức độ sử dụng

B63     Mặc dù có quy định tại các đoạn 56-59, đơn vị phải ghi nhận doanh thu cho một khoản phí bản quyền tính trên doanh số hoặc mức độ sử dụng đã cam kết để đổi lấy giấy phép sử dụng tài sản sở hữu trí tuệ chỉ khi (hoặc ngay khi) một trong các sự kiện sau xảy ra, tùy thuộc vào sự kiện nào xảy ra sau:

  • hoạt động bán hàng hoặc sử dụng xảy ra sau đó; và
  • nghĩa vụ thực hiện (toàn bộ hoặc một phần) mà phí bản quyền tính trên doanh số hoặc mức độ sử dụng đã được phân bổ cho nghĩa vụ thực hiện đó. 

B63A Phí bản quyền tính trên doanh số hoặc mức độ sử dụng quy định tại đoạn B63 được áp dụng khi phí bản quyền chỉ liên quan đến một giấy phép về tài sản sở hữu trí tuệ hoặc khi giấy phép về tài sản sở hữu trí tuệ là một khoản mục cốt lõi mà phí bản quyền có liên quan (ví dụ như khi đơn vị có kỳ vọng hợp lý rằng khách hàng sẽ đánh giá giá trị của giấy phép nhiều hơn đáng kể so với các hàng hóa hoặc dịch vụ khác mà phí bản quyền có liên quan).

B63B  Khi quy định được nêu tại đoạn B63A đã được thỏa mãn, doanh thu từ phí bản quyền tính trên doanh số hoặc mức độ sử dụng phải được ghi nhận toàn bộ theo quy định tại đoạn B63. Khi quy định được nêu tại đoạn B63A không được thỏa mãn, những quy định về khoản thanh toán biến đổi được quy định tại các đoạn 50 – 59 sẽ áp dụng cho phí bản quyền tính trên doanh số hoặc mức độ sử dụng.

IFRS 15 – Licensing

A licence establishes a customer’s rights to the intellectual property of an entity. Licences of intellectual property may include, but are not limited to, licences of any of the following:

(a) software and technology;

(b) motion pictures, music and other forms of media and entertainment;

(c) franchises; and

(d) patents, trademarks and copyrights.

In addition to a promise to grant a licence (or licences) to a customer, an entity may also promise to transfer other goods or services to the customer. Those promises may be explicitly stated in the contract or implied by an entity’s
customary business practices, published policies or specific statements (see paragraph 24). As with other types of contracts, when a contract with a customer includes a promise to grant a licence (or licences) in addition to other promised goods or services, an entity applies paragraphs 22–30 to identify each of the performance obligations in the contract.

If the promise to grant a licence is not distinct from other promised goods or services in the contract in accordance with paragraphs 26–30, an entity shall account for the promise to grant a licence and those other promised goods or
services together as a single performance obligation. Examples of licences that are not distinct from other goods or services promised in the contract include the following:

(a) a licence that forms a component of a tangible good and that is integral to the functionality of the good; and

(b) a licence that the customer can benefit from only in conjunction with a related service (such as an online service provided by the entity that enables, by granting a licence, the customer to access content). If the licence is not distinct, an entity shall apply paragraphs 31–38 to determine whether the performance obligation (which includes the promised licence) is a performance obligation that is satisfied over time or satisfied at a point in time.

If the promise to grant the licence is distinct from the other promised goods or services in the contract and, therefore, the promise to grant the licence is a separate performance obligation, an entity shall determine whether the licence transfers to a customer either at a point in time or over time. In making this determination, an entity shall consider whether the nature of the entity’s promise in granting the licence to a customer is to provide the customer with either:

(a) a right to access the entity’s intellectual property as it exists throughout the licence period; or

(b) a right to use the entity’s intellectual property as it exists at the point in time at which the licence is granted.

Determining the nature of the entity’s promise

[Deleted]

The nature of an entity’s promise in granting a licence is a promise to provide a right to access the entity’s intellectual property if all of the following criteria are met:

(a) the contract requires, or the customer reasonably expects, that the entity will undertake activities that significantly affect the intellectual property to which the customer has rights (see paragraphs B59 and B59A);

(b) the rights granted by the licence directly expose the customer to any positive or negative effects of the entity’s activities identified in paragraph B58(a); and

(c) those activities do not result in the transfer of a good or a service to the customer as those activities occur (see paragraph 25). 

Factors that may indicate that a customer could reasonably expect that an entity will undertake activities that significantly affect the intellectual property include the entity’s customary business practices, published policies or specific statements. Although not determinative, the existence of a shared economic interest (for example, a sales-based royalty) between the entity and the customer related to the intellectual property to which the customer has
rights may also indicate that the customer could reasonably expect that the entity will undertake such activities.

An entity’s activities significantly affect the intellectual property to which the customer has rights when either:
(a) those activities are expected to significantly change the form (for example, the design or content) or the functionality (for example, the ability to perform a function or task) of the intellectual property; or

(b) the ability of the customer to obtain benefit from the intellectual property is substantially derived from, or dependent upon, those activities. For example, the benefit from a brand is often derived from, or dependent upon, the entity’s ongoing activities that support or maintain the value of the intellectual property.

Accordingly, if the intellectual property to which the customer has rights has significant stand-alone functionality, a substantial portion of the benefit of that intellectual property is derived from that functionality. Consequently, the ability of the customer to obtain benefit from that intellectual property would not be significantly affected by the entity’s activities unless those activities significantly change its form or functionality. Types of intellectual property
that often have significant stand-alone functionality include software, biological compounds or drug formulas, and completed media content (for example, films, television shows and music recordings).

If the criteria in paragraph B58 are met, an entity shall account for the promise to grant a licence as a performance obligation satisfied over time because the customer will simultaneously receive and consume the benefit from the entity’s performance of providing access to its intellectual property as the performance occurs (see paragraph 35(a)). An entity shall apply paragraphs 39–45 to select an appropriate method to measure its progress towards complete satisfaction of that performance obligation to provide access.

If the criteria in paragraph B58 are not met, the nature of an entity’s promise is to provide a right to use the entity’s intellectual property as that intellectual property exists (in terms of form and functionality) at the point in time at which the licence is granted to the customer. This means that the customer can direct the use of, and obtain substantially all of the remaining benefits from, the licence at the point in time at which the licence transfers. An entity shall account for the promise to provide a right to use the entity’s intellectual property as a performance obligation satisfied at a point in time. An entity shall apply paragraph 38 to determine the point in time at which the licence transfers to the customer. However, revenue cannot be recognised for a licence that provides a right to use the entity’s intellectual property before the beginning of the period during which the customer is able to use and benefit from the licence. For example, if a software licence period begins before an entity provides (or otherwise makes available) to the customer a code that enables the customer to immediately use the software, the entity would not recognise revenue before that code has been provided (or otherwise made available).

An entity shall disregard the following factors when determining whether a licence provides a right to access the entity’s intellectual property or a right to use the entity’s intellectual property:

(a) Restrictions of time, geographical region or use—those restrictions define the attributes of the promised licence, rather than define whether the entity satisfies its performance obligation at a point in time or over time.
(b) Guarantees provided by the entity that it has a valid patent to intellectual property and that it will defend that patent from unauthorised use—a promise to defend a patent right is not a performance obligation because the act of defending a patent protects the value of the entity’s intellectual property assets and provides assurance to the customer that the licence transferred meets the specifications of the licence promised in the contract

Sales-based or usage-based royalties

Notwithstanding the requirements in paragraphs 56–59, an entity shall recognise revenue for a sales-based or usage-based royalty promised in exchange for a licence of intellectual property only when (or as) the later of
the following events occurs:

(a) the subsequent sale or usage occurs; and

(b) the performance obligation to which some or all of the sales-based or usage-based royalty has been allocated has been satisfied (or partially satisfied).

The requirement for a sales-based or usage-based royalty in paragraph B63 applies when the royalty relates only to a licence of intellectual property or when a licence of intellectual property is the predominant item to which the royalty relates (for example, the licence of intellectual property may be the predominant item to which the royalty relates when the entity has a reasonable expectation that the customer would ascribe significantly more value to the licence than to the other goods or services to which the royalty relates).

When the requirement in paragraph B63A is met, revenue from a sales-based or usage-based royalty shall be recognised wholly in accordance with paragraph B63. When the requirement in paragraph B63A is not met, the requirements on variable consideration in paragraphs 50–59 apply to the sales-based or usage-based royalty. 

Liên hệ nếu quý khách cần tư vấn thêm: Ms Huyền Hotline/Zalo – 094 719 2091

Email: pham.thi.thu.huyen@manaboxvn.jp.

_______________

Công ty TNHH Manabox Việt Nam
Phòng 701, tầng 7, tòa nhà 3D center, số 3 Duy Tân, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Facebook: https://www.facebook.com/ManaboxVietnam

    Liên hệ với chúng tôi




    You cannot copy content of this page.

    Please contact with Manabox for more support.