C100 Kiểm tra hệ thống kiểm soát nội bộ

Chương trình kiểm toán được tham khảo từ tài liệu do Hội kiểm toán Viên hành nghề Việt Nam VACPA chia sẻ: C100 Kiểm tra hệ thống kiểm soát nội bộ.

Các mẫu này có nội dung tương tự nhau, do đó KTV căn cứ vào hướng dẫn dưới đây để thực hiện cho các mẫu từ C110 – C150. Ngoài ra các thủ tục kiểm soát chính nêu tại mẫu này là các ví dụ giả định, KTV căn cứ vào KSNB thực tế, mục tiêu kiểm soát và rủi ro phát hiện để thực hiện cho từng khách hàng kiểm toán.

Chuẩn mực và người thực hiện

KTV phải thiết kế và thực hiện các thử nghiệm kiểm soát để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát có liên quan nếu (CMKiT số 330, đoạn 08):

  1. Khi đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn liệu, KTV kỳ vọng rằng các kiểm soát hoạt động hiệu quả (nghĩa là: KTV có ý định dựa vào tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát để xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản); hoặc
  2. Nếu chỉ thực hiện các thử nghiệm cơ bản thì không thể cung cấp đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp ở cấp độ cơ sở dẫn liệu.
  3. Các thử nghiệm kiểm soát chỉ được thực hiện đối với những kiểm soát mà KTV xác định rằng được thiết kế phù hợp để ngăn chặn hoặc phát hiện và sửa chữa một sai sót trọng yếu trong một cơ sở dẫn liệu. Nếu các kiểm soát khác nhau về cơ bản được thực hiện tại những thời điểm khác nhau trong giai đoạn được kiểm toán thì mỗi kiểm soát đó phải được xem xét riêng.
  4. Việc kiểm tra tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát khác với việc tìm hiểu và đánh giá về mặt thiết kế và thực hiện của các kiểm soát đó. Tuy nhiên, KTV vẫn có thể sử dụng các loại thủ tục kiểm toán giống nhau để kiểm tra. Vì thế, KTV có thể quyết định cách kiểm tra hiệu quả là kiểm tra tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát đồng thời với việc đánh giá về mặt thiết kế và xác định rằng các kiểm soát đó đã được thực hiện.
  5. Mặc dù một số thủ tục đánh giá rủi ro có thể không được thiết kế để làm thử nghiệm kiểm soát nhưng các thủ tục đó cũng có thể cung cấp bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát và do đó, đóng vai trò như thử nghiệm kiểm soát. Ví dụ, các thủ tục đánh giá rủi ro của KTV có thể bao gồm:
  6. Phỏng vấn về việc sử dụng dự toán của BGĐ;
  7. Quan sát việc BGĐ so sánh chi phí dự tính và chi phí thực tế hàng tháng;
  8. Kiểm tra các báo cáo để phát hiện biến động giữa số liệu thực tế với kế hoạch;
  9. Các thủ tục kiểm toán này không chỉ cung cấp những hiểu biết về công tác lập kế hoạch của đơn vị và liệu kế hoạch đó đã được thực hiện hay chưa, mà còn có thể cung cấp bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của quy trình lập kế hoạch của đơn vị trong việc ngăn ngừa và phát hiện các sai sót trọng yếu trong phân loại chi phí.
  10. KTV có thể thiết kế một thử nghiệm kiểm soát để thực hiện đồng thời với việc kiểm tra chi tiết cùng một giao dịch. Mặc dù mục tiêu của thử nghiệm kiểm soát khác với mục tiêu của kiểm tra chi tiết nhưng có thể thực hiện đồng thời cả hai thủ tục này đối với cùng một giao dịch, gọi là “thử nghiệm kép”. Ví dụ: KTV có thể thiết kế và đánh giá các kết quả kiểm tra một hóa đơn nhằm xác định xem hóa đơn đó đã được phê duyệt hay chưa, đồng thời cung cấp bằng chứng kiểm toán chi tiết về giao dịch đó. Thử nghiệm kép được thiết kế và đánh giá bằng cách xem xét riêng rẽ mỗi mục tiêu kiểm toán nêu trên.
  11. Trong một số trường hợp, KTV có thể nhận thấy rằng không thể thiết kế các thử nghiệm cơ bản một cách hiệu quả mà bản thân các thử nghiệm này cung cấp đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp ở cấp độ cơ sở dẫn liệu. Tình huống này có thể xảy ra khi một đơn vị điều hành hoạt động kinh doanh bằng CNTT và không ghi lại hoặc không lưu trữ bằng tài liệu mà chỉ thông qua hệ thống CNTT. Trong trường hợp này, KTV phải thực hiện các thử nghiệm kiểm soát có liên quan theo yêu cầu trong đoạn 08(b), CMKiT số 330.
  12. Khi thiết kế và thực hiện thử nghiệm kiểm soát, KTV càng tin tưởng vào tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát thì càng phải thu thập bằng chứng kiểm toán thuyết phục hơn.
  13. KTV có thể đạt được mức độ đảm bảo cao hơn về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát khi phương pháp kiểm toán chủ yếu sử dụng thử nghiệm kiểm soát, đặc biệt là khi không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp chỉ từ các thử nghiệm cơ bản.
  14. Khi thiết kế và thực hiện thử nghiệm kiểm soát, KTV phải:
  • Thực hiện các thủ tục kiểm toán khác kết hợp với thủ tục phỏng vấn nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát, gồm:
  • Các kiểm soát đã được thực hiện như thế nào tại các thời điểm liên quan trong suốt giai đoạn được kiểm toán;
  • Các kiểm soát có được thực hiện nhất quán hay không;
  • Các kiểm soát được ai thực hiện và thực hiện bằng cách.
  • Xác định liệu các kiểm soát được thử nghiệm có phụ thuộc vào các kiểm soát khác không (kiểm soát gián tiếp) và, nếu có, liệu có cần thiết thu thập bằng chứng kiểm toán chứng minh tính hữu hiệu của các hoạt động kiểm soát gián tiếp đó hay không.
  1. Chỉ thực hiện thủ tục phỏng vấn thôi thì không đủ để kiểm tra tính hữu hiệu của các kiểm soát, do đó, KTV cần thực hiện các thủ tục kiểm toán khác kết hợp với phỏng vấn. Thủ tục phỏng vấn kết hợp với kiểm tra hoặc thực hiện lại có thể cung cấp sự đảm bảo cao hơn so với việc kết hợp thủ tục phỏng vấn và quan sát vì quan sát chỉ phù hợp tại thời điểm diễn ra giao dịch.
  2. Nội dung của một kiểm soát cụ thể sẽ ảnh hưởng đến loại thủ tục cần thực hiện để thu thập bằng chứng kiểm toán về tính hoạt động hữu hiệu của kiểm soát đó. Ví dụ, nếu tính hoạt động hữu hiệu được chứng minh dưới hình thức văn bản thì KTV có thể quyết định kiểm tra tài liệu của đơn vị để thu thập bằng chứng kiểm toán về tính hoạt động hữu hiệu đó. Tuy nhiên, đối với các kiểm soát khác, tài liệu về hoạt động có thể sẽ không có sẵn hoặc không thích hợp. Ví dụ, có thể không có tài liệu về hoạt động của một số yếu tố của môi trường kiểm soát như việc phân quyền, phân nhiệm, hoặc không có tài liệu về một số loại hoạt động kiểm soát như các hoạt động kiểm soát được xử lý bằng máy tính. Trong trường hợp này, KTV có thể thu thập bằng chứng về tính hoạt động hữu hiệu bằng cách phỏng vấn kết hợp với các thủ tục kiểm toán khác, như quan sát hoặc sử dụng các kỹ thuật kiểm toán với sự hỗ trợ của máy tính.

Phạm vi của thử nghiệm kiểm soát

KTV có thể phải mở rộng phạm vi thử nghiệm đối với một kiểm soát khi cần thu thập bằng chứng kiểm toán thuyết phục hơn về tính hữu hiệu của kiểm soát đó. Ngoài mức độ tin cậy vào các kiểm soát, KTV có thể xem xét các vấn đề sau khi xác định phạm vi của thử nghiệm kiểm soát:

  • Tần suất thực hiện kiểm soát của đơn vị trong suốt giai đoạn;
  • Khoảng thời gian trong giai đoạn kiểm toán mà KTV tin cậy vào tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát;
  • Tỷ lệ sai lệch dự kiến của một kiểm soát;
  • Tính thích hợp và độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán cần thu thập về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát ở cấp độ cơ sở dẫn liệu;
  • Phạm vi của bằng chứng kiểm toán cần thu thập được từ các thử nghiệm kiểm soát khác liên quan đến cơ sở dẫn liệu đó.

Do tính nhất quán vốn có của quy trình xử lý CNTT, KTV có thể không cần phải mở rộng phạm vi thử nghiệm đối với một kiểm soát tự động. Một kiểm soát tự động sẽ được thực hiện một cách nhất quán nếu chương trình (bao gồm các bảng biểu, tệp tin hay dữ liệu cố định được sử dụng trong chương trình) không thay đổi. Nếu KTV xác định là một kiểm soát tự động vận hành đúng như dự kiến (việc xác định có thể được thực hiện tại thời điểm bắt đầu thực hiện kiểm soát hoặc một thời điểm khác) thì KTV có thể xem xét thực hiện các thử nghiệm để xác định rằng kiểm soát đó tiếp tục vận hành hiệu quả. Các thử nghiệm đó có thể bao gồm việc xác định:

  • Các thay đổi của chương trình sẽ không được thực hiện khi chưa có sự kiểm soát thích hợp đối với các thay đổi đó;
  • Phiên bản chính thức của chương trình được sử dụng để xử lý giao dịch;
  • Các kiểm soát chung khác có liên quan được thực hiện hiệu quả.

Các thử nghiệm này cũng có thể bao gồm việc xác định rằng những thay đổi của chương trình chưa được triển khai, như trường hợp đơn vị sử dụng các gói phần mềm ứng dụng mà không chỉnh sửa hoặc bảo trì các phần mềm này. Ví dụ, KTV có thể kiểm tra hồ sơ quản trị về an ninh CNTT để thu thập được bằng chứng kiểm toán cho thấy chưa có sự truy cập trái phép nào trong suốt giai đoạn.

Thử nghiệm đối với các kiểm soát gián tiếp

Trong một số trường hợp, KTV có thể cần thu thập bằng chứng kiểm toán để chứng minh tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát gián tiếp. Ví dụ, khi KTV quyết định kiểm tra tính hữu hiệu của việc người sử dụng soát xét báo cáo ngoại lệ về việc bán hàng vượt hạn mức nợ cho phép, thì việc soát xét của người sử dụng và các hoạt động liên quan sau đó là các kiểm soát được KTV xác định là liên quan trực tiếp. Các kiểm soát đối với tính chính xác của thông tin trong báo cáo (ví dụ: kiểm soát chung về CNTT) được coi là các kiểm soát gián tiếp.

Do tính nhất quán vốn có của quy trình xử lý CNTT, bằng chứng kiểm toán về việc thực hiện một ứng dụng kiểm soát tự động, khi được xem xét kết hợp với các bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát chung của đơn vị (đặc biệt là các kiểm soát đối với sự thay đổi), cũng có thể cung cấp bằng chứng kiểm toán quan trọng về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát đó.

Lịch trình thử nghiệm kiểm soát

KTV phải thực hiện thử nghiệm kiểm soát cho một thời điểm cụ thể, hoặc cho cả giai đoạn mà KTV dự định dựa vào các kiểm soát đó, để đưa ra cơ sở thích hợp cho sự tin cậy của KTV vào các kiểm soát đó.

Bằng chứng kiểm toán chỉ liên quan đến một thời điểm vẫn có thể là đầy đủ cho mục đích kiểm toán, ví dụ khi thử nghiệm kiểm soát đối với việc kiểm kê HTK của đơn vị vào cuối kỳ kế toán. Mặt khác, nếu KTV dự định dựa vào một kiểm soát trong cả giai đoạn, KTV cần thực hiện các thử nghiệm có khả năng cung cấp bằng chứng kiểm toán về việc kiểm soát đó được thực hiện hiệu quả tại những thời điểm liên quan trong giai đoạn đó. Những thử nghiệm loại này có thể bao gồm thử nghiệm đối với việc giám sát các kiểm soát của đơn vị.

Sử dụng bằng chứng kiểm toán thu thập được trong giai đoạn giữa kỳ

  1. Nếu KTV thu thập bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát trong giai đoạn giữa kỳ, KTV phải:
  2. Thu thập bằng chứng kiểm toán về những thay đổi quan trọng trong các kiểm soát xảy ra sau giai đoạn giữa kỳ;
  3. Xác định bằng chứng kiểm toán bổ sung cần thu thập cho giai đoạn còn lại.
  4. Khi xác định bằng chứng kiểm toán bổ sung cần thu thập về các kiểm soát được thực hiện trong giai đoạn từ giữa kỳ đến cuối kỳ, KTV cần xem xét các yếu tố bao gồm:
  • Mức độ nghiêm trọng của các rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn liệu;
  • Các kiểm soát cụ thể đã được thử nghiệm trong giai đoạn giữa kỳ, cũng như những thay đổi quan trọng đối với các kiểm soát đó kể từ khi được thử nghiệm, kể cả những thay đổi về hệ thống thông tin, quy trình xử lý và nhân sự;
  • Mức độ thu thập được bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của các hoạt động kiểm soát đó;
  • Khoảng thời gian còn lại của giai đoạn kiểm toán;
  • Phạm vi thử nghiệm cơ bản mà KTV dự định giảm bớt dựa vào mức độ tin cậy của các kiểm soát;
  • Môi trường kiểm soát.
  1. KTV có thể thu thập bằng chứng kiểm toán bổ sung bằng cách thực hiện thử nghiệm kiểm soát cho giai đoạn còn lại hoặc kiểm tra công tác giám sát các kiểm soát của đơn vị được kiểm toán.

Sử dụng bằng chứng kiểm toán thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước

  1. Để xác định xem việc sử dụng bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát đã có từ các cuộc kiểm toán trước có phù hợp hay không và để xác định khoảng thời gian trước khi tiến hành lại thử nghiệm kiểm soát, KTV phải xem xét những vấn đề sau:
  2. Tính hữu hiệu của các thành phần khác của KSNB, bao gồm môi trường kiểm soát, việc giám sát các kiểm soát và quy trình đánh giá rủi ro của đơn vị;
  3. Các rủi ro phát sinh từ các đặc tính của kiểm soát, cho dù kiểm soát đó được thực hiện thủ công hay tự động;
  4. Tính hữu hiệu của các kiểm soát chung về CNTT;
  5. Tính hữu hiệu của kiểm soát và việc thực hiện kiểm soát đó của đơn vị, bao gồm nội dung và mức độ của các sai lệch trong việc thực hiện kiểm soát đã ghi nhận trong các cuộc kiểm toán trước, và liệu có thay đổi nào về nhân sự có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực hiện kiểm soát đó hay không;
  6. Liệu việc không thay đổi một kiểm soát cụ thể có gây rủi ro khi hoàn cảnh đã thay đổi hay không;
  7. Rủi ro có sai sót trọng yếu và mức độ tin cậy vào các kiểm soát.
  8. Trong một số trường hợp nhất định, bằng chứng kiểm toán thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước cũng có thể cung cấp bằng chứng cho cuộc kiểm toán hiện tại nếu KTV thực hiện các thủ tục kiểm toán để chứng minh các bằng chứng kiểm toán năm trước vẫn tiếp tục phù hợp cho cuộc kiểm toán hiện tại. Ví dụ: khi thực hiện cuộc kiểm toán trước, KTV đã xác định là một kiểm soát tự động của đơn vị đã vận hành như dự kiến thì trong cuộc kiểm toán hiện tại, KTV có thể thu thập bằng chứng kiểm toán để xác định liệu có thay đổi nào trong kiểm soát tự động này có thể ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát hay không, thông qua việc phỏng vấn BGĐ và kiểm tra sổ theo dõi để xác định các kiểm soát nào đã bị thay đổi. Bằng chứng kiểm toán về những thay đổi này có thể giúp KTV quyết định tăng hoặc giảm bằng chứng kiểm toán cần thu thập trong giai đoạn hiện tại để đánh giá tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát.
  9. Nếu KTV dự định sử dụng bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát cụ thể đã thu thập được từ cuộc kiểm toán trước, KTV phải chứng minh rằng các bằng chứng đó vẫn còn giá trị bằng cách thu thập bằng chứng kiểm toán về việc liệu có phát sinh những thay đổi đáng kể trong các kiểm soát đó kể từ sau cuộc kiểm toán trước hay không.
  10. KTV phải thu thập bằng chứng này bằng cách thực hiện phỏng vấn kết hợp với quan sát hoặc điều tra, để xác nhận sự hiểu biết về các kiểm soát cụ thể đó, và:
  • Nếu có những thay đổi ảnh hưởng đến sự phù hợp của bằng chứng kiểm toán đã thu thập từ cuộc kiểm toán trước, KTV phải thực hiện thử nghiệm kiểm soát trong cuộc kiểm toán hiện tại;
  • Nếu không có thay đổi nào, KTV phải thực hiện thử nghiệm kiểm soát ít nhất một lần trong ba cuộc kiểm toán liên tục, và phải thực hiện thử nghiệm đối với một số kiểm soát trong mỗi cuộc kiểm toán để tránh tình trạng phải tiến hành thử nghiệm tất cả các kiểm soát mà KTV dự định tin cậy vào trong một cuộc kiểm toán duy nhất mà không thực hiện thử nghiệm bất kỳ kiểm soát nào trong hai cuộc kiểm toán tiếp theo.

Các kiểm soát đã thay đổi kể từ các cuộc kiểm toán trước

  1. Các thay đổi có thể làm ảnh hưởng đến tính thích hợp của bằng chứng kiểm toán đã thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước, làm cho các bằng chứng này không còn tiếp tục được KTV tin cậy trong cuộc kiểm toán hiện tại. Ví dụ, các thay đổi trong hệ thống cho phép đơn vị nhận một báo cáo mới từ hệ thống có thể không ảnh hưởng đến tính thích hợp của bằng chứng kiểm toán đã thu thập được từ cuộc kiểm toán trước nhưng các thay đổi làm cho dữ liệu được cộng lũy kế hoặc được tính toán theo một cách khác sẽ ảnh hưởng đến tính thích hợp của bằng chứng kiểm toán đó.

Các kiểm soát không thay đổi kể từ các cuộc kiểm toán trước

  1. KTV cần sử dụng xét đoán chuyên môn để quyết định liệu có thể tiếp tục tin tưởng vào những bằng chứng kiểm toán đã thu thập được trong các cuộc kiểm toán trước đối với các kiểm soát sau:
    1. Các kiểm soát không có sự thay đổi kể từ lần thử nghiệm cuối cùng;
    2. Các kiểm soát không làm giảm bớt rủi ro đáng kể.

KTV cũng sử dụng xét đoán chuyên môn để xác định khoảng thời gian thích hợp để kiểm tra lại các kiểm soát, tuy nhiên theo quy định tại đoạn 14(b) CMKiT số 330, việc này cần được thực hiện ít nhất một lần trong 3 năm liên tục.

  1. Nói chung, rủi ro có sai sót trọng yếu càng cao, hoặc mức độ tin cậy vào kiểm soát càng lớn, thì thời gian giữa các lần kiểm tra (nếu có) càng ngắn. Các yếu tố có thể rút ngắn thời gian kiểm tra lại một kiểm soát, hoặc làm cho KTV quyết định không tin cậy vào bằng chứng kiểm toán thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước, bao gồm:
  • Môi trường kiểm soát yếu kém;
  • Sự yếu kém của công tác giám sát các kiểm soát;
  • Các kiểm soát liên quan có một yếu tố quan trọng được thực hiện thủ công;
  • Thay đổi nhân sự có ảnh hưởng đáng kể đến việc ứng dụng một kiểm soát;
  • Tình hình thay đổi dẫn đến sự cần thiết phải thay đổi về kiểm soát;
  • Yếu kém trong các kiểm soát chung về CNTT.
  1. Khi KTV dự định tin cậy vào bằng chứng kiểm toán thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước đối với một số kiểm soát, việc kiểm tra một số trong các kiểm soát đó ở từng cuộc kiểm toán sẽ cung cấp thông tin chứng thực về tính hữu hiệu liên tục của môi trường kiểm soát. Việc này giúp KTV quyết định liệu có thể tin cậy vào bằng chứng kiểm toán đã thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước hay không.

Các kiểm soát đối với rủi ro đáng kể

Nếu KTV dự định tin cậy vào các kiểm soát đối với một rủi ro mà KTV xác định là rủi ro đáng kể, KTV phải thử nghiệm các kiểm soát đó trong giai đoạn hiện tại.

Đánh giá tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát

  • Khi đánh giá tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát liên quan, KTV phải đánh giá liệu các sai sót được phát hiện từ các thử nghiệm cơ bản có cho thấy các kiểm soát không hoạt động hiệu quả hay không
  • Nếu phát hiện những sai lệch trong các kiểm soát mà KTV dự định tin cậy vào, KTV phải thực hiện những cuộc phỏng vấn cụ thể để tìm hiểu về những vấn đề này cũng như những hậu quả tiềm tàng, và phải xác định:
    • Các thử nghiệm kiểm soát đã thực hiện có cung cấp cơ sở thích hợp để KTV tin cậy vào các kiểm soát đó hay không;
    • Có cần thực hiện các thử nghiệm kiểm soát bổ sung hay không; hoặc
    • Các rủi ro có khả năng xảy ra sai sót có cần được xử lý bằng cách áp dụng các thử nghiệm cơ bản hay không;
    • Phương pháp kiểm toán dựa vào các kiểm soát vẫn còn phù hợp.
  • Một sai sót trọng yếu được KTV phát hiện là dấu hiệu rõ ràng về sự tồn tại của một khiếm khuyết nghiêm trọng trong KSNB
  • Khái niệm tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát vẫn cho thấy có thể có những sai lệch trong cách thức triển khai các kiểm soát của đơn vị. Những sai lệch đó có thể do các yếu tố như thay đổi nhân sự chủ chốt, sự dao động đáng kể về số lượng giao dịch theo mùa vụ và các nhầm lẫn chủ quan. Tỷ lệ sai lệch được phát hiện, đặc biệt là khi so với tỷ lệ sai lệch dự kiến, có thể cho thấy không thể tin cậy vào kiểm soát để giảm rủi ro ở cấp độ cơ sở dẫn liệu xuống mức độ mà KTV đánh giá.

Lưu ý: khi kiểm tra tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát, nếu hoạt động kiểm soát không được thực hiện theo thiết kế, chưa thể khẳng định ngay hoạt động kiểm soát bị thất bại trong việc xử lý rủi ro. KTV cần xem xét các hoạt động kiểm soát thay thế. Ví dụ: hoạt động kiểm soát yêu cầu “Đề nghị cấp vật tư phải được người có thẩm quyền phê duyệt (ký)” có thể được thực hiện phê duyệt qua email hoặc điện thoại và bổ sung phê duyệt trên tài liệu bản cứng sau đó.

Thời điểm thực hiện

Thực hiện trong quá trình kiểm toán và thông thường được thực hiện trong giai đoạn soát xét BCTC giữa kỳ hoặc kiểm toán sơ bộ, hoặc giai đoạn đầu của cuộc kiểm toán.

Cách thực hiện

KTV sử dụng các thủ tục sau để kiểm tra các thủ tục kiểm soát chính có thực sự hoạt động hữu hiệu trong việc ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các gian lận, nhầm lẫn đối với từng chu trình kinh doanh chính:

  • Phỏng vấn các cá nhân liên quan (lưu ý là chỉ thực hiện phỏng vấn là không đủ để kiểm tra tính hoạt động hữu hiệu của các kiểm soát);
  • Kiểm tra các tài liệu liên quan;
  • Quan sát hoạt động của các chu trình kinh doanh chính và các nghiệp vụ chính;
  • Thực hiện lại các thủ tục kiểm soát xem chúng có hoạt động, hoặc hoạt động có hiệu quả không.

Lấy mẫu trong thử nghiệm kiểm soát

Thử nghiệm kiểm soát thường được thiết kế để cung cấp mức độ thấp hoặc trung bình của rủi ro kiểm soát (mức độ giảm rủi ro cao hoặc trung bình (độ tin cậy)) khi kiểm soát được thử nghiệm đang hoạt động hiệu quả. 

Khi thiết kế thử nghiệm kiểm soát, KTV có thể thấy hữu ích để xem xét hai mức độ của độ tin cậy cần đạt được từ thử nghiệm kiểm soát:

  • Mức độ cao của độ tin cậy (mức độ thấp của rủi ro còn lại). Điều này áp dụng khi bằng chứng chủ yếu thu được từ các thử nghiệm kiểm soát; và
  • Mức độ trung bình của độ tin cậy (mức độ trung bình của rủi ro còn lại). Điều này áp dụng khi thử nghiệm kiểm soát kết hợp với các thử nghiệm cơ bản khác để xử lý một cơ sở dẫn liệu cụ thể.

Lấy mẫu thuộc tính thường được sử dụng để thử nghiệm kiểm soát. Kỹ thuật này sử dụng cỡ mẫu nhỏ nhất có khả năng cung cấp cơ hội cụ thể để phát hiện ra một tỷ lệ sai lệch vượt quá tỷ lệ sai lệch có thể bỏ qua. Ưu điểm của lấy mẫu thuộc tính:

  • Thích hợp nhất để kiểm tra tính hoạt động hữu hiệu của KSNB là các kiểm soát đã được đánh giá là tin cậy cao trong quá trình đánh giá thiết kế và thực hiện kiểm soát.
  • Nếu có mức độ sai lệch được kỳ vọng trong hoạt động của một kiểm soát, KTV nên xem xét sử dụng các phương pháp thay thế để thu thập bằng chứng kiểm toán.
  • Nếu không có bất kỳ sai lệch nào được tìm thấy từ một mẫu thử nghiệm kiểm soát, KTV có thể khẳng định rằng kiểm soát hoạt động hiệu quả. Nếu tìm thấy sai lệch, thường hiệu quả hơn khi dừng thủ tục và thực hiện thử nghiệm cơ bản thay thế. Chỉ một sai lệch kiểm soát sẽ có thể dẫn đến sửa đổi mức độ đánh giá rủi ro kiểm soát. Khi đã phát hiện một sai lệch, để tiếp tục thực hiện thử nghiệm, KTV phải mở rộng đáng kể về cỡ mẫu và có thể sẽ không tìm thấy thêm sai lệch.

Xác định cỡ mẫu đối với các kiểm soát giao dịch

Cỡ mẫu được xác định như sau:

Cỡ mẫu   = Yếu tố độ tin cậy ÷ tỷ lệ sai lệch có thể bỏ qua

Trong đó Yếu tố độ tin cậy và Tỷ lệ sai lệch có thể bỏ qua được tham khảo từ bảng sau:

Mức giảm rủi ro

Mức độ tin cậy

Yếu tố độ tin cậy

Tỷ lệ sai lệch có thể bỏ qua

Cỡ mẫu

Cao

95%

3.0

0.05

60.0

Trung bình

90%

2.3

0.10

23.0

85%

1.9

0.15

12.7

80%

1.6

0.20

8.0

Thấp

75%

1.4

0.25

5.6

70%

1.2

0.30

4.0

65%

1.1

0.35

3.1

Để kiểm tra tính hoạt động hữu hiệu của kiểm soát với sự phụ thuộc tối thiểu vào việc thực hiện các công việc khác, độ tin cậy 90% (yếu tố độ tin cậy liên quan = 2.3) thường được sử dụng. Tỷ lệ sai lệch có thể bỏ qua cao nhất có thể là 10%. Cỡ mẫu nhỏ nhất trong trường hợp này sẽ là 23 như tính toán sau đây. 

Yếu tố độ tin cậy (2.3) ÷ tỷ lệ sai lệch có thể bỏ qua (0.1) = Cỡ mẫu là 23

Khi bằng chứng khác (như bằng chứng từ các thử nghiệm kiểm toán cơ bản) được thu thập cho một cơ sở dẫn liệu cụ thể, yếu tố độ tin cậy có thể giảm, do đó chỉ cần thu được mức độ giảm rủi ro trung bình thông qua kiểm tra tính hoạt động hữu hiệu của kiểm soát. Trong trường hợp đó, độ tin cậy 80% (yếu tố độ tin cậy liên quan = 1.61) có thể được sử dụng, dẫn đến cỡ mẫu nhỏ nhất là 8. Một số DNKiT sử dụng các yếu tố độ tin cậy cao hơn, dẫn đến cỡ mẫu nhỏ nhất là 10 phần tử cho mức độ giảm rủi ro trung bình và 30 phần tử cho mức độ giảm rủi ro cao hơn.

Lưu ý: Khi áp dụng lấy mẫu thống kê để kiểm tra tính hoạt động hữu hiệu của KSNB, cỡ mẫu được yêu cầu không tăng khi quy mô của tổng thể tăng lên. Một mẫu ngẫu nhiên ít nhất là 30 phần tử và không có sai lệch nào được phát hiện có thể cung cấp mức độ tin cậy cao là kiểm soát đang hoạt động hiệu quả. 

Lựa chọn mẫu 

Các bước thực hiện

  1. Xác định mục đích của thủ tục và bằng chứng được cung cấp liên quan đến các cơ sở dẫn liệu của thuộc tính kiểm soát được thử nghiệm.
  2. Chọn tổng thể các phần tử phù hợp để đạt được mục tiêu thử nghiệm. Điều này có thể thay đổi tùy theo cơ sở dẫn liệu chính cần xử lý. Ví dụ, có thể lựa chọn các hóa đơn để kiểm tra tính hiện hữu của doanh thu, nhưng tài liệu này không cung cấp bằng chứng về tính đầy đủ của doanh thu. Trong trường hợp này, lựa chọn tốt hơn là kiểm tra từ đơn hàng được nhập hoặc tài liệu gửi hàng đến hóa đơn và sau đó đến các khoản phải thu.
  3. Xác định cỡ mẫu tối thiểu cần thiết để cung cấp mức độ giảm rủi ro được yêu cầu. Có thể là mức độ giảm rủi ro cao hoặc trung bình.
  4. Dùng chương trình tạo số ngẫu nhiên hoặc một phương pháp phù hợp khác để chọn các phần tử kiểm tra. Mỗi phần tử trong tổng thể phải có cơ hội được chọn ngang nhau.

Xác định cỡ mẫu đối với các kiểm soát hoạt động ít hơn hàng ngày

Để lựa chọn mẫu đối với các kiểm soát không hoạt động hàng ngày, các hướng dẫn như sau có thể hữu ích. Tuy nhiên, cỡ mẫu thực tế sử dụng luôn dựa trên xét đoán chuyên môn.

Kiểm soát hoạt động

Mẫu tối thiểu được đề nghị

Phần trăm bao phủ

của thử nghiệm

Hàng tuần

10

19%

Hàng tháng

2 – 4

25%

Hàng quý

2

50%

Hàng năm

1

100%

Đánh giá kết quả lấy mẫu

Sẽ không có ý nghĩa khi thực hiện thử nghiệm kiểm soát nếu có thể phát hiện ra sai lệch. Bởi vì cách duy nhất để đạt được sự đảm bảo cần thiết là mở rộng cỡ mẫu. Sau đó, nếu tìm thấy sai lệch khác, mẫu lại phải được mở rộng tiếp và cứ tiếp tục như thế. Thực hiện các thủ tục thay thế sẽ tốt hơn nhiều so với mở rộng cỡ mẫu.

Kết quả lấy mẫu có thể được đánh giá bằng cách so sánh tỷ lệ sai lệch có thể bỏ qua tối đa với cái được gọi là giới hạn sai lệch tối đa được xác định theo công thức dưới đây.

Giới hạn sai lệch tối đa = Yếu tố độ tin cậy điều chỉnh ÷ Cỡ mẫu 

Yếu tố độ tin cậy điều chỉnh có thể dựa trên số lượng sai lệch được tìm thấy như minh họa sau.

 

Yếu tố độ tin cậy điều chỉnh cho số lượng sai lệch tìm thấy

Độ tin cậy được yêu cầu

1

2

3

4

5

95%

4.7

6.3

7.8

9.2

10.5

90%

3.9

5.3

6.7

8.0

9.3

80%

3.0

4.3

5.5

6.7

7.9

70%

2.4

3.6

4.7

5.8

7.0

Ví dụ, giả định một mẫu gồm 30 phần tử (sử dụng độ tin cậy 90% và tỷ lệ sai lệch có thể bỏ qua tối đa 10%) và tìm thấy 2 sai lệch. Giới hạn sai lệch tối đa sẽ được tính như sau: 

Yếu tố độ tin cậy điều chỉnh (5.3) ÷ Cỡ mẫu (30) = Giới hạn sai lệch tối đa 17%

Kết quả 17% cao hơn nhiều so với tỷ lệ sai lệch có thể bỏ qua tối đa 10%, có nghĩa là phải giảm đi sự tin cậy vào tính hiệu quả của kiểm soát. Tuy nhiên, nếu quyết định tăng cỡ mẫu, sẽ phải tăng lên 60 phần tử và không có sai lệch nào được phát hiện thêm. Điều này sẽ giảm giới hạn sai lệch tối đa (như được tính dưới đây) xuống một mức có thể chấp nhận được (nghĩa là gần với giới hạn 10%).

Yếu tố độ tin cậy điều chỉnh (5.3) ÷ Cỡ mẫu (60) = Giới hạn sai lệch tối đa 9%

Tuy nhiên, nếu phát hiện thêm sai lệch, sẽ cần mở rộng mẫu thêm để cố gắng đạt được các kết quả mong muốn. Điều này có thể không hiệu quả về thời gian kiểm toán cũng như có thể phát hiện thêm sai lệch.

Liên kết với giấy làm việc khác

Liên kết đến giấy làm việc là CTKiT các phần hành liên quan.

Liên kết đến Mẫu A910 – Tổng hợp kế hoạch kiểm toán và sẽ ảnh hưởng đến các CTKiT chi tiết tại các Phần từ mục D đến mục G.

Liên hệ nếu quý khách cần tư vấn thêm: Ms Huyền Hotline/Zalo – 094 719 2091

Email: pham.thi.thu.huyen@manaboxvn.jp.

_______________

Công ty TNHH Manabox Việt Nam
Phòng 701, tầng 7, tòa nhà 3D center, số 3 Duy Tân, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội, Việt Nam Facebook: https://www.facebook.com/ManaboxVietnam

    Liên hệ với chúng tôi




    You cannot copy content of this page.

    Please contact with Manabox for more support.